Nghề gốm truyền thống của người Bahnar ở Kon Rẫy

Nghề gốm truyền thống của người Bahnar ở Kon Rẫy
Nghề làm gốm của người Bahnar ở làng Kon Sơm MLũh, xã Đăk Tờ Re, huyện Kon Rẫy (Kon Tum) từng rất hưng thịnh.
Công đoạn giã đất làm gốm của người Bahnar. Ảnh: Quang Thái Người Bahnar không nung gốm trong những lò chuyên dụng mà nung gốm trong đống lửa lộ thiên. Nơi nung gốm thường kín gió và cách xa những thứ dễ bắt lửa. Ảnh: Văn Nhưng
Công đoạn giã đất làm gốm của người Bahnar. Ảnh: Quang Thái
 
Công đoạn giã đất làm gốm của người Bahnar. Ảnh: Quang Thái Người Bahnar không nung gốm trong những lò chuyên dụng mà nung gốm trong đống lửa lộ thiên. Nơi nung gốm thường kín gió và cách xa những thứ dễ bắt lửa. Ảnh: Văn Nhưng
Người Bahnar không nung gốm trong những lò chuyên dụng mà nung gốm trong đống lửa lộ thiên. Nơi nung gốm thường kín gió và cách xa những thứ dễ bắt lửa. Ảnh: Văn Nhưng

Tuy nhiên, hiện chỉ còn 2 chị em Y Ber và Y Pư, thành viên của một gia đình Bahnar nhiều đời làm gốm vẫn còn theo đuổi với nghề. Theo bà Y Ber (65 tuổi), để làm được một sản phẩm gốm thì việc chọn đất sét là quan trọng nhất.

Bà Y Pư học nghề làm gốm từ chị gái Y Ber. Ảnh: Bình An
Bà Y Pư học nghề làm gốm từ chị gái Y Ber. Ảnh: Bình An

Sản phẩm gốm được phơi, khi thấy sản phẩm đạt đến độ khô vừa phải, người thợ gốm Bahnar sẽ vẽ lên đó các họa tiết hoa văn rồi lại đem phơi tiếp. Ảnh: Văn Nhưng
Sản phẩm gốm được phơi, khi thấy sản phẩm đạt đến độ khô vừa phải, người thợ gốm Bahnar sẽ vẽ lên đó các họa tiết hoa văn rồi lại đem phơi tiếp. Ảnh: Văn Nhưng

Trước đó, cả làng cùng họp lại để chọn ngày cúng đất. Khi tạo hình sản phẩm, người thợ không dùng máy móc phụ trợ, họ chỉ sử dụng một hòn kê cố định và di chuyển ngược chiều kim đồng hồ. Chỉ với những công đoạn đơn giản như vậy nhưng người thợ gốm Bahnar đã tạo ra các sản phẩm đa dạng như: cốc, lọ hoa, nồi... Mất nhiều công sức, thu nhập lại thấp nên hiện không nhiều người Bahnar duy trì nghề gốm. Sợ làng gốm bị xóa sổ, bà Y Ber mong muốn được truyền nghề nhưng chỉ có em gái là bà Y Pư còn quyết tâm theo học. Sự cố gắng của hai chị em người Bahnar này đã và đang góp phần gìn giữ nghề gốm ở làng Kon Sơm MLũh.
Bình An
Dân tộc Ba Na Dân tộc Ba Na

Tên tự gọi: Ba Na.

Tên gọi khác: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...

Nhóm địa phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar Krem.

Dân số: 227.716 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Ba Na canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy. Cái cuốc là công cụ chủ yếu trong canh tác nông nghiệp ở tộc người này. Với ruộng khô thì việc thâm canh không bỏ hóa là đặc điểm khác với rẫy. Ruộng khô thường ở vùng ven sông suối. Từ đầu thế kỷ XX, việc làm ruộng nước bằng cày đã ngày càng phát triển ở nhiều nơi. Vườn chuyên canh và vườn đa canh cũng xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi và các nghề thủ công như: đan, dệt, gốm, rèn còn chưa phát triển.

: Ðịa bàn cư trú của người Ba Na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây của Bình Ðịnh, Phú YênKhánh Hòa. Họ cư trú trên nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình sừng, ở giữa làng được xây cất một ngôi nhà công cộng - nhà làng, nhà rông với hai mái vồng và cao vút. Ðó là nhà khách của làng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội làng, xử án...

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng, cho nam, nữ và cho mọi lứa tuổi. Gùi nhiều kích cỡ to nhỏ và nhiều chủng loại, đan mau và thưa nhưng đều theo một mô típ cổ truyền.

Quan hệ xã hội: Làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh và duy nhất. Tàn dư mẫu hệ vẫn thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, tộc họ và trong hôn nhân. Sự tan rã của chế độ mẫu hệ ở đây đã nâng cao địa vị của nam giới nhưng phía mẹ vẫn gần gũi hơn. Sau hôn nhân còn phổ biến tập quán cư trú phía nhà vợ. Xã hội có người giàu, người nghèo và tôi tớ.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm