Nét đẹp văn hóa trong lễ cấp sắc của người Dao Tiền

Thầy cúng và chủ nhà làm lễ trước ban thờ tổ tiên. Ảnh: Hữu Quyết - TTXVN
Thầy cúng và chủ nhà làm lễ trước ban thờ tổ tiên. Ảnh: Hữu Quyết - TTXVN

Cấp sắc là một nghi thức tín ngưỡng đặc trưng của đồng bào dân tộc Dao ở tỉnh Sơn La nói chung và người Dao Tiền ở huyện Mộc Châu nói riêng. Đàn ông người Dao đều trải qua lễ cấp sắc, một nghi lễ đánh dấu sự trưởng thành, cũng như sự thừa nhận của cộng đồng về người được cấp sắc. Trong lễ cấp sắc, người thụ lễ được đặt pháp danh - tên âm và được học những giáo lý về đạo đức, nhân sinh quan. Sau khi trải qua lễ này, người đàn ông Dao được công nhận là con cháu Bàn Vương và được trao quyền làm thầy, thờ cúng tổ tiên. Vì vậy, đây là hoạt động hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người Dao ở Sơn La.

Nét đẹp văn hóa trong lễ cấp sắc của người Dao Tiền ảnh 1Thầy cúng và chủ nhà làm lễ trước ban thờ tổ tiên. Ảnh: Hữu Quyết - TTXVN

Theo phong tục của người Dao Tiền, khi con trai lớn lên, chưa lập gia đình sẽ được tổ chức lễ cấp sắc, chính thức đặt pháp danh - tên âm và công nhận sự trưởng thành cho chàng trai. Để chuẩn bị cho lễ cấp sắc, gia đình người thụ lễ phải chuẩn bị khá công phu gồm gạo, thịt, rượu, quần áo, tranh thờ, nhạc cụ truyền thống… Việc tổ chức to hay nhỏ phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình.

Lễ cấp sắc của người Dao Tiền thường được tổ chức vào lúc nông nhàn, khoảng tháng 12 năm trước đến tháng 1, tháng 2 Âm lịch. Trong ngày đặc biệt này, cả bản đến giúp hành lễ và phần hội được tổ chức cho cộng đồng cùng tham gia ngay tại nhà gia chủ.

Ông Đặng Quyết Tiến, già làng bản Suối Khem, xã Phiêng Luông chia sẻ, lễ cấp sắc của người Dao Tiền được ông bà từ xa xưa truyền lại. Nam giới từ 9 tuổi trở lên phải đặt tên, nếu không làm lúc nhỏ khi lớn lên hay lúc về già vẫn phải làm.

Nét đẹp văn hóa trong lễ cấp sắc của người Dao Tiền ảnh 2Thầy cúng làm lễ cho người được cấp sắc. Ảnh: Hữu Quyết - TTXVN

Trong quá trình thực hành lễ cấp sắc, thầy cúng sử dụng một số nhạc cụ, đạo cụ trong một số nghi lễ nhất định. Ngoài trang phục của thầy cúng và con thầy, trong lễ cấp sắc không thể thiếu tranh thờ, sách cúng, vải trắng, thanh âm dương, dấu gỗ, tích trượng, đèn, nến. Nhạc cụ gồm có trống, thanh la, nạo bạt, chiêng, tù và chuông.

Trình tự của nghi lễ cấp sắc của người Dao Tiền ở Mộc Châu gồm: Gia đình người được cấp sắc làm lễ nhận thầy cả và thầy hai; trong đó, thầy cả làm lễ cấp đèn, cấp hương cho người được cấp sắc. Sau đó, cả hai thầy làm lễ cấp đèn cho người được cấp sắc. Thầy cả đứng trước ban thờ tổ tiên, thần linh cầu phù hộ và xin đưa thần linh đến nhà người thụ lễ để làm lễ cấp sắc, xin được lấy tên cho người được cấp sắc. Đặt tên xong thầy cả làm lễ cấp phép cho người cấp sắc. Thầy hai và người được cấp sắc đứng trước ban thờ đọc bài cúng xin thần linh về chứng giám. Sau đó, thầy hai và người được cấp sắc cùng nhảy múa theo nhịp nhạc trống, chiêng.

Nét đẹp văn hóa trong lễ cấp sắc của người Dao Tiền ảnh 3Thầy cúng và chủ nhà làm lễ trước ban thờ tổ tiên. Ảnh: Hữu Quyết - TTXVN

Thông qua nghi lễ cấp sắc, cộng đồng dân tộc Dao Tiền đề cao tính giáo dục luân thường, đạo lý truyền thống đối với nam thanh niên. Các thành viên trong mỗi dòng họ, mỗi cộng đồng Dao Tiền có dịp nghe lại lịch sử của gia đình, dòng tộc, hiểu hơn về nguồn cội, ghi nhớ công ơn tổ tiên, cha ông, từ đó tự điều chỉnh mình, sống sao cho xứng đáng với tổ tiên, dòng tộc.

Anh Lý Đức Trọng, bản Suối Khem, xã Phiêng Luông, cho biết gia đình anh làm lễ cấp sắc cho con trai để có tên trong dòng họ và hòa nhập với cộng đồng. Qua lễ cấp sắc, gia đình anh cầu mong cho con luôn khỏe mạnh và giỏi giang hơn.

Nét đẹp văn hóa trong lễ cấp sắc của người Dao Tiền ảnh 4Em Lý Phúc Anh, bản Suối Khem, Phiêng Luông, huyện Mộc Châu mặc trang phục truyền thống trong ngày thực hiện lễ cấp sắc. Ảnh: Hữu Quyết - TTXVN

Tại lễ cấp sắc có hai phần lễ và hội được tổ chức đan xen. Nếu như phần lễ nghiêm trang thì phần hội lại sôi động, vui tươi. Tất cả mọi người trong bản, từ cụ già đến thanh niên và các em nhỏ, ai có mặt đều hòa mình vào điệu múa Dao Tiền trong tiếng trống, tiếng chiêng và tiếng những quả chuông lắc ở tay rất nhịp nhàng.

Em Lý Phúc Anh, bản Suối Khem, Phiêng Luông, chia sẻ, được gia đình tổ chức lễ cấp sắc, em rất vui. Vì đây là sự việc đánh dấu em đã trưởng thành hơn. Em rất tự hào và mong muốn bản sắc văn hóa của dân tộc mình sẽ được giữ gìn, không bị mai một.

Nét đẹp văn hóa trong lễ cấp sắc của người Dao Tiền ảnh 5Người được cấp sắc và cộng đồng bản làng cùng tham gia điệu múa chuông. Ảnh: Hữu Quyết - TTXVN

Lễ cấp sắc luôn được người Dao Tiền ở Mộc Châu gìn giữ, phát huy và đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể năm 2016, qua đó góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tạo động lực để phát triển đời sống kinh tế, xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc phòng vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Phó Giám đốc Trung tâm Truyền thông - Văn hóa huyện Mộc Châu Lý Văn Vinh cho biết, Trung tâm đang tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền về lễ cấp sắc cho người dân trên địa bàn. Đặc biệt, Trung tâm đã mở những lớp truyền dạy về lễ cấp sắc và tuyên truyền giới thiệu về bản sắc văn hóa của lễ cấp sắc để góp phần bảo tồn nét văn hóa độc đáo này. Đây cũng là nét độc đáo để thu hút du khách gần xa tìm hiểu về đời sống văn hóa vô cùng phong phú của cộng đồng người Dao Tiền ở Mộc Châu.

Hữu Quyết

(TTXVN)
Dân tộc Dao Dân tộc Dao

Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).

Tên gọi khác: Mán.

Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).

Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.

Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.

Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.

Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.

Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...

Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.

Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.

Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.

Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.

Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.

Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.

: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.

Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.

Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.

Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.

Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.

Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.

Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.


Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.

Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.

Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.

Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.

Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.

Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm