Lưu giữ nghề làm hương của người Mông ở Lai Châu

Lưu giữ nghề làm hương của người Mông ở Lai Châu

Tuy chịu tác động của nền kinh tế thị trường nhưng đồng bào Mông ở xã Dào San, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu vẫn lưu giữ được nghề làm hương truyền thống. Làm nghề này giúp người dân có thêm thu nhập, tạo nét văn hóa riêng của đồng bào Mông nơi vùng cao biên giới.

Lưu giữ nghề làm hương của người Mông ở Lai Châu ảnh 1Từ rất lâu, hương của đồng bào dân tộc Mông xã Dào San là sản phẩm truyền thống quen thuộc với người tiêu dùng cụm 7 xã biên giới phía Bắc huyện Phong Thổ (Lai Châu). Ảnh: Việt Hoàng-TTXVN

Chiều cuối năm, chúng tôi tới thăm gia đình bà Thào Thị Nhừ (dân tộc Mông, 90 tuổi ở bản Dền Thàng A, xã Dào San). Đã bước qua cái tuổi “xưa nay hiếm” nhưng bà vẫn rất khỏe mạnh, nhanh nhẹn. Đôi bàn tay nhỏ nhắn, gân guốc liên tục vót nhẵn que làm hương. Làm đến đâu, bà Nhừ lại chỉ dạy một cách tỉ mỉ cho cháu dâu để lưu giữ nghề.

Bà Thào Thị Nhừ chia sẻ, bà đã làm hương được 60 năm. Đây là nghề truyền thống do tổ tiên truyền dạy lại. Do vậy, bà duy trì thường xuyên để bán trong mỗi phiên chợ. Số hương còn lại gia đình sử dụng và bảo quản cẩn thận bán cho khách trong dịp Tết Nguyên đán. Mỗi phiên chợ, bà mang hương đi bán được từ 70.000-80.000 đồng. Gia đình có tiền chi tiêu sinh hoạt, cải thiện cuộc sống.

Lưu giữ nghề làm hương của người Mông ở Lai Châu ảnh 2Bà Thào Thị Nhừ, dân tộc Mông, 90 tuổi ở bản Dền Thàng A, xã Dào San, huyện Phong Thổ (Lai Châu) làm hương được 60 năm nay, giúp gia đình lưu giữ nghề làm hương truyền thống. Ảnh: Việt Hoàng-TTXVN

Để tạo nên sản phẩm chất lượng, người làm hương phải chuẩn bị chu đáo ngay từ nguyên liệu. Cây tre sau khi chặt thành từng đoạn theo đúng kích thước mong muốn sẽ vót nhỏ, tròn, phơi khô, sau đó hong lên gác bếp khoảng 2 ngày; tiếp đến nhúng que vào nước rồi nhúng vào bột hương. Người làm hương phải vừa nhúng que vào bột vừa nhẹ nhàng xoay que nhiều lần theo hình tròn sao cho bột hương dính đều vào que. Những chỗ bột hương trên que chưa đủ độ dày và chưa phẳng bề mặt, người làm hương dùng tay cầm bột hương rồi tiếp tục rắc đều lên que hương đến khi ưng ý mới đem đi phơi thật khô.

Theo kinh nghiệm của người Mông, nếu trời nắng to, hương phơi trong hai ngày sẽ thành phẩm. Ngược lại, thời tiết nắng ít thời gian phơi kéo dài, trời mưa phải mang lên gác bếp sấy. Quá trình phơi hương phải để các que hương không bị dính liền, hạn chế rơi; thường xuyên phải đảo hương để que hương khô đều. Điều quan trọng nhất quyết định trực tiếp đến chất lượng sản phẩm hương chính là bột hương. Bột hương được làm từ lá cây trên rừng (thường gọi là cây hương). Lá cây hương lấy về rửa sạch, phơi khô, đem nghiền bằng máy hoặc giã nhỏ thành bột mịn có màu xanh rêu, khi nào sờ vào không bị lợn cợn hay ráp tay mới đạt tiêu chuẩn.

Lưu giữ nghề làm hương của người Mông ở Lai Châu ảnh 3Bà Thào Thị Nhừ, dân tộc Mông, 90 tuổi, ở bản Dền Thàng A, xã Dào San, huyện Phong Thổ (Lai Châu) phơi hương cho khô. Ảnh: Việt Hoàng-TTXVN

Hương của người Mông Dào San làm từ nguyên liệu tự nhiên, không chứa phẩm màu, hóa chất. Trong từng công đoạn, người làm hương đều làm rất cẩn thận, tỉ mỉ. Điều này góp phần tạo nên sản phẩm hương chất lượng, có mùi thơm nhẹ, khác biệt so với các địa phương khác, được nhiều khách hàng ưa chuộng.

Hương của đồng bào Mông xã Dào San là sản phẩm truyền thống quen thuộc với người tiêu dùng cụm 7 xã biên giới phía Bắc huyện Phong Thổ. Bởi hương có mùi thơm đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, nhẹ mà thanh, không sực nức nhưng lại phảng phất rất lâu.

Lưu giữ nghề làm hương của người Mông ở Lai Châu ảnh 4Nghề làm hương truyền thống giúp bà con nhân dân xã Dào San, huyện Phong Thổ (Lai Châu) có thêm thu nhập trong mỗi phiên chợ. Ảnh: Việt Hoàng-TTXVN

Chị Vàng Lở Mẩy, người dân bản Dao Chản, xã Dào San cho biết. gia đình chị thường thắp hương vào ngày mùng 1 và 15 hằng tháng. Chính vì vậy, mỗi khi xuống chợ Dào San, chị lại mua hương về dùng. Mình thấy hương bà con làm hoàn toàn từ tự nhiên, không nguy hại cho sức khỏe lại có mùi thơm, giá thành rẻ nên rất hài lòng và yên tâm sử dụng.

Theo người dân nơi đây, làm hương là nghề truyền thống được người dân xã Dào San lưu giữ, truyền từ đời này sang đời khác, phục vụ đời sống tâm linh. Thế nhưng không phải ai cũng được làm hương, người làm hương phải tuân thủ quy định như, chỉ phụ nữ đã đứng tuổi, có con cái trưởng thành mới được làm...

Nghề làm hương ở Dào San đã giúp bà con có thêm thu nhập, cải thiện cuộc sống. Với nguồn nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên, chỉ cần 3 đến 5 ngày làm hương đem ra chợ huyện bán cũng thu được một khoản tiền chi tiêu cho sinh hoạt gia đình. Đặc biệt, trong những ngày giáp Tết Nguyên đán, người làm hương thường tất bật hơn mới đủ phục vụ nhu cầu người dân trong vùng.

Lưu giữ nghề làm hương của người Mông ở Lai Châu ảnh 5Bà Thào Thị Nhừ, dân tộc Mông, 90 tuổi ở bản Dền Thàng A, xã Dào San, huyện Phong Thổ (Lai Châu) dạy cháu dâu cách phơi hương không bị dính vào nhau. Ảnh: Việt Hoàng-TTXVN

Xã Dào San khuyến khích người dân lưu giữ nghề truyền thống, tích cực truyền dạy nghề cho thế hệ con cháu. Mặt khác, xã tuyên truyền người dân khi đi lấy lá hương phải bảo vệ cây, không được chặt hạ cây hay làm gãy cành. Nhờ vậy, nghề làm hương truyền thống không bị mai một, hiện toàn xã có trên 10 hộ duy trì nghề.

Ông Ma A Già, Chủ tịch UBND xã Dào San cho hay, theo phong tục của đồng bào Mông xã Dào San, dịp Tết Nguyên đán bắt buộc phải sử dụng hương do chính người dân bản địa làm. Đây là nét văn hóa đặc sắc của người dân nơi đây. Thời gian tới, xã tiếp tục tạo điều kiện và có giải pháp hỗ trợ về nguồn vốn để các hộ có nhu cầu làm hương vay mở rộng quy mô. Từ đó, vừa giúp xã lưu giữ được nghề truyền thống vừa tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân trên địa bàn.

Việt Hoàng

(TTXVN)
Dân tộc Mông Dân tộc Mông

Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.

Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.

Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.

Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.

Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...

Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.

Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.

Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.

Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.

Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.

Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.

Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.

Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.

Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.

Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt.jpg
Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt

: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.

Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.

Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.

Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.

Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.

Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.

Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.

Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...

Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.

Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.

Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.

Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.

Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.

Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung.jpg
Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm