Lễ “Nước giọt” của người Rơ Ngao

Phụ nữ Rơ Ngao biểu diễn múa xoang cầu mong một năm mới mùa màng tốt tươi. Ảnh: Khoa Chương
Phụ nữ Rơ Ngao biểu diễn múa xoang cầu mong một năm mới mùa màng tốt tươi. Ảnh: Khoa Chương

Người Rơ Ngao là một nhánh của dân tộc Bahnar sống tập trung tại làng Kon Trang Long Loi, huyện Đăk Hà (Kon Tum). Vào dịp cuối năm, cộng đồng người Rơ Ngao lại tổ chức lễ cúng "Nước giọt" nhằm tạ ơn Yàng Ia (Thần nước) và cầu mong một mùa màng tốt tươi sẽ đến trong năm mới.

Lễ “Nước giọt” của người Rơ Ngao ảnh 1Phụ nữ Rơ Ngao biểu diễn múa xoang cầu mong một năm mới mùa màng tốt tươi. Ảnh: Khoa Chương

Đối với người Rơ Ngao, lễ cúng “Nước giọt” được xem như dịp “Tết Nguyên đán” của cộng đồng dân tộc nơi đây. Già làng sẽ xác định ngày lành làm lễ và thông báo đến người dân để cùng nhau đóng góp những vật phẩm như lợn, gà, gạo nếp và rượu ghè (cần)… Khi mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng, già làng A Thui mặc quần áo thổ cẩm, đứng trước “Nước giọt” và bắt đầu khấn vái để mời thần linh về chứng giám, dự lễ cùng dân làng.

Lễ “Nước giọt” của người Rơ Ngao ảnh 2Trẻ em người Rơ Ngao trong trang phục truyền thống tham gia lễ hội. Ảnh Khoa Chương
Lễ “Nước giọt” của người Rơ Ngao ảnh 3Trẻ em người Rơ Ngao chơi cồng chiêng trong lễ hội. Ảnh: Khoa Chương
Lễ “Nước giọt” của người Rơ Ngao ảnh 4Trong tiếng cồng chiêng rộn rã, đồng bào cùng nhau thưởng thức rượu ghè. Ảnh Khoa Chương

Tiếp theo là phần hội ở nhà Rông trong tiếng cồng chiêng rộn rã vang lên. Dân làng tập trung quanh nhà Rông, bày đủ các loại món ăn như măng xào, thịt nướng, lá mì xào… và không thể thiếu là rượu ghè. Mọi người hòa mình vào những điệu múa xoang cùng với nhịp cồng chiêng vang giữa núi đồi, tạo nên bầu không khí lễ hội tưng bừng mang đậm bản sắc của người Rơ Ngao.

Khoa Chương

(DTMN)
Dân tộc Ba Na Dân tộc Ba Na

Tên tự gọi: Ba Na.

Tên gọi khác: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...

Nhóm địa phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar Krem.

Dân số: 227.716 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Ba Na canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy. Cái cuốc là công cụ chủ yếu trong canh tác nông nghiệp ở tộc người này. Với ruộng khô thì việc thâm canh không bỏ hóa là đặc điểm khác với rẫy. Ruộng khô thường ở vùng ven sông suối. Từ đầu thế kỷ XX, việc làm ruộng nước bằng cày đã ngày càng phát triển ở nhiều nơi. Vườn chuyên canh và vườn đa canh cũng xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi và các nghề thủ công như: đan, dệt, gốm, rèn còn chưa phát triển.

: Ðịa bàn cư trú của người Ba Na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây của Bình Ðịnh, Phú YênKhánh Hòa. Họ cư trú trên nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình sừng, ở giữa làng được xây cất một ngôi nhà công cộng - nhà làng, nhà rông với hai mái vồng và cao vút. Ðó là nhà khách của làng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội làng, xử án...

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng, cho nam, nữ và cho mọi lứa tuổi. Gùi nhiều kích cỡ to nhỏ và nhiều chủng loại, đan mau và thưa nhưng đều theo một mô típ cổ truyền.

Quan hệ xã hội: Làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh và duy nhất. Tàn dư mẫu hệ vẫn thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, tộc họ và trong hôn nhân. Sự tan rã của chế độ mẫu hệ ở đây đã nâng cao địa vị của nam giới nhưng phía mẹ vẫn gần gũi hơn. Sau hôn nhân còn phổ biến tập quán cư trú phía nhà vợ. Xã hội có người giàu, người nghèo và tôi tớ.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm