Lễ mừng cơm mới của người La Chí ở Quang Bình

Lễ mừng cơm mới của người La Chí ở Quang Bình

Trong hai ngày 9 và 10/10, tại thôn Lùng Vi, xã Nà Khương, Ủy ban Nhân dân huyện Quang Bình (Hà Giang) đã tổ chức phục dựng Lễ mừng cơm mới. Lễ mừng cơm mới có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống văn hóa của người La Chí.

Lễ hội năm nay được tổ chức quy mô, bài bản nhằm phục dựng, bảo tồn và phát huy nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng dân tộc La Chí nói riêng và các dân tộc sinh sống trên địa bàn huyện nói chung.

Cùng với Lễ mừng cơm mới, còn có hàng loạt các hoạt động như tổ chức cắt lúa, rước hồn lúa về nhà, đồ lúa, sấy lúa để làm cốm, xôi dâng cúng tổ tiên. Cùng với đó các hoạt động vui chơi giải trí như ném còn giao duyên, đu quay… cũng được tổ chức với sự tham dự của đông đảo người dân.

Lễ mừng cơm mới của người La Chí ở Quang Bình  ảnh 1 Thịt chuột trong nghi lễ cúng mừng cơm mới. Ảnh: Nguyễn Chiến - TTXVN

Ông Vương Văn Phô, thôn Lùng Vi, xã Nà Khương, huyện Quang Bình (Hà Giang) chia sẻ, năm nào cũng vậy, để chuẩn bị cho Lễ mừng cơm mới, từ hôm trước, gia đình ông đã lau dọn bàn thờ, chuẩn bị lễ vật cúng. Đặc biệt trong lễ vật cúng không thể thiếu cá hoặc thịt chuột, thảo quả... “Sáng nay, từ sớm tinh mơ những người phụ nữ trong gia đình La Chí đi cắt lúa về để giã, đồ xôi, làm cốm dâng lên tổ tiên. Sau khi dâng tổ tiên xong rồi mới được ăn”, ông Phô chia sẻ.

Lễ mừng cơm mới của người La Chí ở Quang Bình  ảnh 2Thầy cúng đang làm lễ cúng mừng cơm mới tại gia đình ông Vương Văn Phô, thôn Lùng Vi, xã Nà Khương, huyện Quang Bình (Hà Giang). Ảnh: Nguyễn Chiến - TTXVN

Bà Chẳng Thị Liên, Phó Chủ tịch UBND huyện Quang Bình cho biết, việc phục dựng Lễ mừng cơm mới nhằm gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của đồng bào dân tộc La Chí. Huyện Quang Bình cũng đã chỉ đạo các thôn bản, đơn vị trường học phải gìn giữ tiếng nói, chữ viết cũng như phong tục tập quán tốt đẹp của đồng bào La Chí, nhằm góp phần gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc đang sinh sống trên địa bàn huyện Quang Bình.

Hàng năm, cứ vào độ cuối tháng 8, đầu tháng 9 âm lịch, khi vụ lúa mùa chín rộ trên khắp các nương đồi, cũng là lúc cộng đồng người La Chí ở huyện Quang Bình tổ chức dâng cúng cơm mới với tổ tiên. Theo phong tục của người La Chí, lễ dâng cúng cơm mới có ý nghĩa báo cáo với tổ tiên, hiếu lễ trên dưới, đồng thời cầu mong cho vụ lúa năm sau được mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và bình an đến với mọi người.

Nguyễn Chiến

(TTXVN)
Dân tộc La Chí Dân tộc La Chí

Tên tự gọi: Cù tê.

Tên gọi khác: Thổ Ðen, Mán, Xá.

Dân số: 13.158 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai (ngữ hệ Thái – Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng La Ha, Cơ Lao, Pu Péo.

Lịch sử: Người La Chí có lịch sử cư trú lâu đời ở Hà Giang, Lào Cai.

Hoạt động sản xuất: Người La Chí giỏi nghề khai khẩn và làm ruộng bậc thang, trồng lúa nước. Họ gặt lúa nếp bằng hái nhắt còn gặt lúa tẻ bằng liềm, đập lúa vào máng gỗ lấy thóc ngay ở ngoài ruộng. Họ sử dụng cả ba loại nương với các công cụ sản xuất khác nhau: gậy chọc lỗ, cuốc, cày. Người ta dành nương tốt nhất để trồng chàm, bông.

Ăn: Người La Chí có cách nấu và ghế cơm bằng hơi nước rất độc đáo. Cơm nấu trong chảo to, cơm sôi thì vớt lên cho vào chõ đồ như đồ xôi. Cơm dỡ ra không bị nát mà khô dẻo nhờ được đồ chín bằng hơi nước nóng. Có nhiều cách giữ thực phẩm để ăn dần như sấy khô, làm thịt chua là phổ biến nhất. Da trâu sấy khô là món ăn rất được ưa chuộng.

Họ thích để răng đen. Răng càng đen càng đẹp. Thanh niên thích bịt răng vàng coi đó là hình thức làm duyên làm dáng, dấu hiệu của sự trưởng thành.

Mặc: Ðàn ông mặc áo dài năm thân, cài khuy bên nách phải, tóc dài quá vai, đội khăn cuốn hay khăn xếp, thích đeo túi vải chàm có viền đỏ xung quanh để đựng diêm thuốc và các thứ lặt vặt.

Phụ nữ mặc quần, một số ít còn mặc váy. Bộ y phục truyền thống là chiếc áo dài tứ thân xẻ giữa, yếm thêu, thắt lưng bằng vải. Vào dịp tết, lễ người ta còn diện ba chiếc áo dài lồng vào nhau. Nữ giới ưa dùng khăn đội đầu dài gần 3 mét. Màu chàm đen rất được ưa thích. Nữ đeo vòng tai, vòng tay.

Nam chỉ đeo vòng tay. Thầy cúng mỗi khi hành lễ có y phục riêng. Ðó là bộ quần áo thụng, dài quá mắt cá chân, xẻ giữa, có thắt lưng bằng vải, đầu đội mũ vải rộng, có quai. Trong một số nghi lễ, người hành lễ đeo một miếng da trâu khô hoặc đội nón.

: Họ thường sống từng làng ở vùng núi đất các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần (Hà Giang). Nhà của mỗi gia đình là một quần thể kiến trúc gồm nhà sàn - nhà trệt - kho thóc trong một phạm vi không gian hẹp.

Kiểu kiến trúc kết hợp chặt chẽ giữa sàn và nhà trệt là một sáng tạo văn hoá độc đáo. Mỗi nhà gồm hai phần bằng nhau, mái lồng vào nhau, phần nhà sàn để ở, phần nhà trệt là nơi làm bếp.

Lên nhà mới phải mời thầy cúng về cúng xua đuổi ma bằng cách dùng ba cây cỏ lá khua bốn góc nhà, bắt đầu từ góc của bố mẹ trước. Nếu người con trai đã có bàn thờ ở nhà cũ thì tháo bàn thờ đó về lắp ở nhà mới trong vị trí của người chủ gia đình. Trong suốt 13 ngày kể từ hôm lên nhà mới, bếp lửa luôn luôn sáng thì mới may mắn.

Phương tiện vận chuyển: Có sự kết hợp giữa cách vận chuyển của cư dân vùng cao và cư dân vùng thung lũng. Phụ nữ phổ biến dùng địu đan bằng giang hoặc địu vải.

Cái địu đều có quai đeo trên trán để chuyên trở. Ðàn ông dùng địu có hai quai đeo vai kiểu địu của người Hmông hoặc dùng đòn gánh đôi dậu. Người La Chí địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc.

Chiếc máng lần là phương tiện dẫn nước phổ biến về đến tận nhà hay gần nhà. Từ bến nước người ta chứa nước vào những ống bương dài tới 1,5m và vác lên nhà sàn để gần chạn bát dùng dần.

Dùng ngựa để thồ hàng cũng là một phương tiện phổ biến.

Các quan hệ xã hội: Gia đình ba thế hệ hay các cặp vợ chồng cùng thế hệ chung sống với nhau là phổ biến. Mỗi họ có người đứng chăm lo việc cúng. Ðó không phải là trưởng họ mà chỉ là người biết cúng. Người ta chọn người giữ vị trí này bằng cách bói xem xương đùi gà.

Người La Chí có cách gọi tên theo nguyên tắc phụ tử liên doanh với công thức là: họ - pô (bố) - tên con - tên riêng của người được gọi. Người phụ nữ có con được gọi theo công thức sau: Mìa (mẹ) - tên con cả - tên chồng.

Tục nhận bố mẹ nuôi cho trẻ sơ sinh khá phổ biến. Trẻ chào đời sau ba buổi sáng, gia chủ đặt một sợi chỉ đỏ trên một trên một bát nước đầy ở trên bàn thờ, chờ ai đó vào nhà trước sẽ được làm bố mẹ nuôi, đặt tên cho cháu bé. Trẻ khóc nhiều được quan niệm là tên chưa hợp, phải bói tìm dòng họ thích hợp làm bố mẹ nuôi đặt tên cho con.

Thờ cúng: Người ta cúng tổ tiên vào các dịp lễ tết. Tổ tiên được cúng ba đời đối với nam, hai đời đối với nữ. Theo phong tục, bố mẹ chôn ngày nào con cái nhớ suốt đời không được gieo giống hay cho vay, mượn vào ngày đó. Ðó không phải là ngày sinh sôi, phát triển.

Trong một nhà có nhiều bàn thờ cho mỗi người đàn ông.

Bàn thờ dựng theo thứ tự của bố, con trai út, các con trai thứ, trong cùng của con trai cả. Mỗi bàn thờ được coi là hoàn thành phải qua ba lần cúng dỡ đi lập lại bàn thờ mới.

Học: Các kiến thức và kinh nghiệm dân gian được trao truyền giữa các thế hệ bằng miệng. Thần thoại, cổ tích đặc biệt phong phú giải thích cho thế hệ trẻ nhiều hiện tượng thiên nhiên và xã hội theo quan niệm dân gian.

Văn nghệ: Ngày tết, lễ trai gái thường hát đối đáp, chơi đàn tính 3 dây, đàn môi. Trống, chiêng được dùng phổ biến.

Chơi: Tết Nguyên đán nam nữ thường tập trung ở bãi rộng chơi ném còn, đánh quay, chơi đu thăng bằng. Tết tháng tám họ chơi đu dây. Trẻ em thích chơi ống phốc.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm