Lễ hội Roóng Poọc của người Giáy ở xã Tả Van

Lễ hội Roóng Poọc của người Giáy ở xã Tả Van
Lễ hội Roóng Poọc (Xuống đồng) của người Giáy là dịp kết thúc một tháng Tết vui chơi, đồng thời mở đầu cho một chu kỳ sản xuất, một mùa vụ mới. Đây còn là dịp cúng thần cai quản địa bàn (Thổ địa) để cầu cho ngô lúa tốt tươi, chăn nuôi phát triển, xóm làng bình yên, mọi người khỏe mạnh,…
Những người Giáy cao tuổi cho biết: từ khi người Giáy sinh sống tại thôn Tả Van Giáy, xã Tả Van, huyện Sapa (Lào Cai) con cháu người Giáy đã thấy ông bà tổ chức lễ hội Roóng Poọc vào ngày Thìn tháng Giêng hằng năm.
 
Nghi lễ cúng trong Lễ hội Roóng Poọc của người Giáy. Ảnh: dulich24.com.vn
Nghi lễ cúng trong Lễ hội Roóng Poọc của người Giáy. Ảnh: dulich24.com.vn

Công tác chuẩn bị cho lễ hội được cộng đồng thực hiện một cách chu đáo, với các nghi thức làm quả còn, chặt cây nêu,… Quả còn được làm bởi 5 cô gái đồng trinh, được tuyển chọn trong các bản. Cây nêu được giao cho các nam thanh niên chọn và chặt mang về khu lễ chính. Trong quá trình chặt và khiêng vác, không được để thân cây chạm đất, nhằm tránh việc để mất tính thiêng của cây. Chủ làng chịu trách nhiệm cắt và trang trí vòng nhật, nguyệt để treo trên ngọn nêu. Vòng nhật, nguyệt có hai màu chủ đạo, với màu xanh tượng trưng cho mặt trăng, màu đỏ tượng trưng cho mặt trời, hội lại thể hiện cho âm dương hòa hợp. Trước giờ dựng cột nêu, chủ lễ buộc vòng nhật, nguyệt vào ngọn cây, chờ giờ Thìn bắt đầu dựng.

Theo quan niệm của người Giáy, đội thổi kèn Pí lè trong nghi lễ đóng vai trò rất quan trọng trong việc đón rước chủ lễ, chủ làng và các mâm lễ thỉnh Ngọc Hoàng, thần linh, trời đất. Sau khi rước mâm lễ vật tới chỗ định chôn cột cây nêu, chủ lễ quay về hướng mặt trời mọc, ra hiệu cho chủ làng thắp hương để thực hiện các nghi lễ đối với các thần trời, thần đất, xin được dựng cột nêu cho ngày lễ. Chủ lễ gieo cặp quẻ âm dương (được làm bằng gỗ đào), nếu gieo được quẻ sấp - quẻ ngửa có nghĩa là các thần đã đồng ý và phù hộ, liền hoá tiền vàng cho các thần. Chủ lễ ra hiệu lệnh cho các thanh niên bắt đầu dựng cột nêu và chôn gốc thật chặt. Khi chôn cột nêu, phải lựa chọn sao cho vòng mặt trời quay về Đông, vòng mặt trăng quay về phía Tây. Cột còn/“tòng cón” được làm từ cây mai, dài khoảng 10 - 20 sải tay, để cả ngọn, sau đó uốn cong ngọn để buộc vòng mặt trời, mặt trăng. Tiếp theo, chủ lễ gieo quẻ âm dương để biết được thần linh đã đến hay chưa. Vật dùng để xin âm dương được làm từ một cành đào nhỏ, dài 6cm, chặt vát hai đầu, chẻ đôi, khi xin, một mảnh sấp, một mảnh ngửa là được, tức là thần đã đến và ưng thuận; nếu không thì tiếp tục xin khi nào được mới thôi.

Sau đó, chủ lễ mời những người cao tuổi có uy tín (chủ làng, già làng, trưởng thôn) ra trước. Nam, nữ đứng riêng thành 2 hàng (mỗi bên 4 người) cầm những “quả còn” đã được “ra mắt” thần, ném tượng trưng ba lần, lấy cột nêu làm chuẩn, bên này tung và bên kia nhặt rồi tung lại, với mục tiêu tung quả còn xuyên thủng vòng mặt trăng. Sau đó, chủ lễ cầm khay đựng quả còn ra phát cho thanh niên, nam nữ đứng hai bên cột nêu, ném còn về phía vòng nhật, nguyệt, với mục đích là làm thủng vòng mặt trăng, mặt trời trên ngọn cột nêu. Quả còn tượng trưng cho “nam tính”, ném vào “phông còn”, phá vỡ “phông còn”, tượng trưng cho sự hòa hợp của âm dương và khát vọng cầu được mùa. Khi ném trúng “phông còn”, ông chủ làng liền tung hạt giống, với ý niệm, đó là những hạt thiêng, chứa năng lượng thiêng, có khả năng sinh sản mạnh, mọi người lao vào tranh cướp. Đây được coi là hình thức trao truyền sự linh thiêng sang hạt giống, nhằm ban phát sự thiêng liêng ấy cho dân làng cùng hưởng một mùa màng bội thu. Cây còn còn là biểu tượng của cây lúa thiêng, cây vũ trụ nối đất với trời, nối âm với dương để muôn vật giao hòa, sinh sôi, phát triển,... Cũng với ý niệm đó, khi dựng cây nêu, ngọn cây phải được quay theo hướng Đông, hướng của sự bắt đầu, hướng của sự sinh sôi, nảy nở.

Các hoạt động vui chơi khác, như hát dân ca, múa khèn,... cũng được diễn ra trong không khí náo nhiệt của lễ hội và đặc biệt là trò kéo co (còn được gọi là kéo mây), một trò không thể thiếu trong lễ hội Xuống đồng. Trong trò này, đồng bào dùng một sợi dây mây hoặc dây song, dài khoảng 20 - 30m, với đầu gốc hướng về phía Đông, đầu ngọn hướng về phía Tây. Sau khi kéo co, trên mảnh ruộng cạnh khu vực cây nêu, dân làng đem hai con trâu to, khoẻ ra cày từ 3 đến 5 đường cày, để tượng trưng cho việc bắt đầu một vụ mùa mới.

Lễ hội Roóng Poọc của người Giáy (xã Tả Van) phản ánh ước nguyện về một cuộc sống dân an, vật thịnh. Toàn bộ diễn trình nghi lễ và các trò chơi luôn gắn với tín ngưỡng phồn thực, cầu cho vạn vật sinh sôi, nảy nở. Dấu vết cầu mưa cũng phản ánh khá đậm nét trong hội Xuống đồng, như dán giấy màu vàng hình con rồng trên vòng nhật, nguyệt với ý nghĩa đảm bảo cho mưa thuận gió hòa.

Lễ hội Roóng Poọc thuộc loại hình lễ hội nông nghiệp, phản ánh một phần lịch sử sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước của người Giáy qua tín ngưỡng: phồn thực, đa thần, thờ mặt trời,… Lễ hội ra đời và phát triển từ chính cuộc sống lao động, sản xuất của người Giáy ở Tả Van đã hàng trăm năm nay, nên nó mang tính lịch sử và nhân văn sâu sắc. Đây là sinh hoạt văn hóa cộng đồng mang tính chất tâm linh, kết hợp với diễn xướng dân gian, từ nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật trình diễn dân gian và các trò dân gian,… gắn liền với đời sống tinh thần người Giáy xã Tả Van, huyện Sa Pa nói riêng và cộng đồng người Giáy tỉnh Lào Cai nói chung.

Lễ hội Roóng Poọc hiện đang được thực hành tốt, với nhiều biện pháp bảo vệ hiệu quả, được cộng đồng đồng thuận đề cử và cam kết bảo vệ. Với những giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học tiêu biểu trên, Lễ hội Roóng Poọc (Xuống đồng) của người Giáy (xã Tả Van, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai) đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2013.
Theo dch.gov.vn
Dân tộc Giáy Dân tộc Giáy

Tên tự gọi: Giáy

Tên gọi khác: Nhắng, Giẳng

Dân số: 58.617 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng Giáy thuộc ngữ hệ Thái - Ka Ðai.

Lịch sử: Người Giáy từ Trung Quốc di cư sang Việt Nam cách đây khoảng 200 năm.

Hoạt động sản xuất: Người Giáy có nhiều kinh nghiệm canh tác lúa nước trên những triền ruộng bậc thang. Bên cạnh đó họ còn làm thêm nương rẫy trồng ngô, lúa, các loại cây có củ và rau xanh. Chăn nuôi theo lối thả rông. Có một số nghề thủ công nhưng chưa phát triển.

Ăn: Ăn cơm tẻ. Gạo được luộc cho chín dở rồi mới cho vào chõ đồ lên như đồ xôi. Nước luộc gạo dùng làm đồ uống. Cách chế biến món ăn, nhất là ăn trong ngày lễ, ngày tết chịu ảnh hưởng sâu sắc của người Hán.

Mặc: Trước kia phụ nữ mặc váy xoè giống như váy của người Mông. Ngày nay họ mặc quần màu chàm đen có dải vải đỏ đắp trên phần cạp, áo cánh 5 thân xẻ tà, dài quá mông, cài khuy bên nách phải, hò áo và cổ tay áo viền những dải vải khác màu. Tóc vấn quanh đầu với những sợi chỉ hồng thả theo đuôi tóc. Vai khoác túi thêu chỉ màu với hoa văn là những đường gấp khúc. Nam giới mặc quần lá toạ, áo cánh xẻ tà, mở khuy ngực.

: Người Giáy cư trú ở các huyện Bát Xát, Bảo Thắng, Mường Khương (Lào Cai), Yên Minh, Ðồng Văn (Hà Giang), Phong Thổ, Mường Tè (Lai Châu). Nhà sàn là nhà ở truyền thống. Hiện nay, kiểu nhà sàn vẫn phổ biến trong bộ phận người Giáy ở Hà Giang, còn bộ phận ở Lào Cai và Lai Châu ở nhà đất nhưng phía trước nhà vẫn là sàn phơi. Nhà thường có 3 gian, bàn thờ đặt ở gian giữa.

Phương tiện vận chuyển: Họ gánh bằng dậu, dùng ngựa thồ, trâu kéo.

Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Giáy có sự phân hoá giai cấp rõ rệt. Tầng lớp trên là những chức dịch trong bộ máy chính quyền ở xã, thôn bản, nhiều người được hưởng ruộng công do dân cày cấy, có rừng thảo quả do dân trồng, có lính phục dịch, có người lo việc tang, việc cưới, đôi khi có cả đội xoè. Nông dân, ngoài đóng thuế còn phải làm lao dịch và cống nạp cho các chức dịch.

Cưới xin: Gồm nhiều nghi lễ: dạm hỏi, thả mối, ăn hỏi, cưới và lại mặt. Trong lễ ăn hỏi nhà trai đưa cho nhà gái một vòng cổ và một vòng tay để "đánh dấu". Trong lễ cưới ngoài chi phí cho ăn uống, nhà trai còn phải mang cho nhà gái một số thực phẩm và tiền để làm quà tặng họ hàng gần; mỗi người một con gà, một con vịt và một đồng bạc trắng. ở người Giáy cũng có tục kéo vợ như người Mông.

Sinh đẻ: Khi có thai phụ nữ phải kiêng nhiều thứ: không đun củi từ ngọn lên gốc (sợ đẻ ngược), không đến đám tang hay nơi thờ cúng (sợ mất vía). Gần đến ngày đẻ, họ phải cúng mụ. Trẻ đầy tháng cúng báo tổ tiên, đặt tên và lập lá số cho trẻ để sau này đem so tuổi khi lấy vợ, lấy chồng và chọn giờ nhập quan, hạ huyệt khi chết đi.

Ma chay: Người Giáy cho rằng khi người ta chết, nếu ma chay chu đáo thì sẽ được lên trời sống sung sướng cùng với tổ tiên, nếu không sẽ bị đưa xuống âm ti hoặc biến thành con vật. Vì thế, ở những gia đình khá giả đám tang có thể kéo dài tới 5-7 ngày và có thêm một số nghi lễ như thả đèn trôi sông, rước hồn đi dạo... Con cái để tang bố mẹ một năm. Lễ đoạn tang thường được tổ chức vào dịp cuối năm.

Thờ cúng: Bàn thờ đặt ở gian giữa, thường có ba bát hương theo thứ tự từ trái sang phải thờ táo quân, trời đất và tổ tiên. Trong trường hợp chủ nhà là con nuôi hay con rể thừa tự muốn thờ họ bố mẹ đẻ thì đặt thêm một bát hương ở bên trái. Những gia đình không thờ bà mụ trong buồng thì đặt thêm một bát hương ở bên phải. Ở một số gia đình ngoài bàn thờ lớn còn đặt một bàn thờ nhỏ để thờ bố mẹ vợ. Phía dưới bàn thờ lớn ngay trên mặt đất đặt một bát hương cúng thổ địa, ở hai bên cửa chính có hai bát hương thờ thần giữ cửa.

Lễ tết: Người Giáy ăn Tết như các dân tộc ở vùng Ðông Bắc: Tết Nguyên đán, Thanh minh, Ðoan ngọ....

Lịch: Người Giáy theo âm lịch.

Học: Người Giáy chưa có văn tự, chỉ có một số rất ít người biết chữ Hán.

Văn nghệ: Trong kho tàng văn nghệ của người Giáy có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, đồng dao, phong dao... Ở người Giáy có ba kiểu hát mà họ gọi là "vươn" hay "phướn" hát bên mâm rượu, hát đêm và hát tiễn dặn...

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm