Lễ cúng ngõ của người M’nông

Lễ cúng ngõ của người M’nông
Lễ cúng ngõ (Ver Bri) của dân tộc M’nông là nghi lễ liên quan đến các hiện tượng của thiên nhiên như mưa, gió, sấm sét và những vị thần chi phối đến cuộc sống, canh tác nông nghiệp của đồng bào.
Văn hóa cổ truyền giàu bản sắc

Dân tộc M’nông sinh sống ở phía Nam Tây Nguyên, là một tộc người còn bảo lưu nhiều vốn văn hóa cổ truyền giàu bản sắc, tiêu biểu là các lễ hội truyền thống. Xuất phát từ tín ngưỡng vạn vật hữu linh, xem các hiện tượng sự vật tồn tại đều có thần, yang chi phối mọi mặt đời sống, nên đồng bào có những hình thức cầu cúng, lễ nghi để ngăn ngừa điều xấu, mong ước điều tốt đẹp, an lành trong cộng đồng.
 
Diễn tấu cồng chiêng trong lễ hội
Diễn tấu cồng chiêng trong lễ hội

Trong đời sống tâm linh, người M’nông nể sợ nhất ba vị thần, đó là thần Djut, thần Ndu và thần Krăch. Thần Djut là thần gió bão, thần Ndu là thần sấm sét, thần Krăch là thần mưa đá. Theo đồng bào, đây là ba vị thần hung ác, đi đến đâu là gây tai hoạ cho người đến đó. Theo truyền thuyết dân gian, giữa ba vị thần này đã có thù nghịch, hiềm khích nhau từ thuở khai sơn lập địa. Lúc nào họ gặp nhau là khiêu chiến, gây sự. Các thần đánh đuổi nhau đến đâu thì xảy ra mưa bão, sấm sét đến đó. Thần Ndu đuổi đánh hai vị thần Djut và thần Krăch, làm cho hai vị thần này phải chạy trốn quanh năm, từ đời này qua đời khác. Mải lo chạy trốn, không có cơm ăn, đói bụng, buộc phải ghé xuống trần gian xin cơm lót dạ.
 
Lễ cúng ngõ của dân tộc M'nông
Lễ cúng ngõ của dân tộc M'nông

Thần ghé làng nào là làng đó bị tai họa, xảy ra mưa gió bão bùng, sét đánh tơi bời. Vì vậy, người M’nông không muốn cho ba thần này đi qua làng của mình nên phải cúng để thần chạy trốn đi nơi khác. Họ thường tiến hành các nghi lễ cúng ở ngoài làng, nơi cửa ngõ dẫn vào làng nên gọi là cúng ngõ (Ver Bri). Lễ cúng thường tổ chức vào tháng 3 âm lịch hàng năm tức là vào cuối mùa nắng, đầu mùa mưa.

Nghi lễ linh thiêng

Lễ cúng Ver Bri được đồng bào tiến hành như sau: Các già làng bàn trước định ngày nào cúng, thông báo cho dân làng dọn vệ sinh sạch sẽ trong làng ở nhà và xung quanh làng. Mỗi hộ gia đình cử người đại diện tham gia lễ hội cúng ngõ. Người đi dự lễ cúng đại diện cho mỗi gia đình chỉ mang theo một bát gạo để cho vào gùi gạo chung của làng. Gùi gạo góp chung này là lễ vật chính được giao cho chủ làng quản lý và sử dụng trong dịp lễ hội.
 
Già làng dân tộc M'nông trên rẫy lúa sắp đến mùa thu hoạch
Già làng dân tộc M'nông trên rẫy lúa sắp đến mùa thu hoạch

Chủ làng dẫn bà con ra ngoài bờ rào, cách xa làng vài trăm mét. Tại đây bà con lập đàn cúng với cái sạp lót bằng tre đặt trên 4 cây cột nhỏ cao độ 50 cm, rộng 50 cm. Bốn cây cột cao hơn sàn độ một gang, bốn phía sạp có làm bờ ngăn bằng lát gỗ để đặt lễ vật, tránh không bị rơi ra ngoài. Đầu bốn sạp cắm bốn cây đèn sáp. Trên sạp đặt ba cây nến sáp không phải đốt, chỉ đốt đèn sáp cắm ở bốn cây cột chống sạp. Trên sạp để một chén gạo, một cục than bếp có quấn miếng bông vải. Hòn than là thần trung gian có “nhiệm vụ” túc trực bên đàn cúng để giao vật cúng cho ba thần ác và khuyên bảo các vị thần này phải đi tránh xa khỏi làng. Trên sạp còn đặt một vỏ trứng gà vừa khoét một lỗ, đem lòng trắng và lòng đen nướng chín và đặt trên sạp để làm thức ăn cho thần. Vỏ trứng gà tượng trưng cho ché rlung (loại ché cổ, quý nhất của đồng bào M’nông) để dâng cho thần. Sạp lót bằng lá chuối, đồ vật cúng được sắp đặt cẩn thận lên trên đó. Trên sạp còn đặt một sừng tê giác giả, đẽo bằng gỗ, to bằng ngón tay trái, một cặp ngà voi giả bằng gỗ nhỏ bằng chiếc đũa. Ngoài ra, trên sạp còn đặt thêm miếng thuốc rê và vài miếng trầu cau.
 
Đàn cúng của người M'nông trong nghi lễ cúng ngõ
Đàn cúng của người M'nông trong nghi lễ cúng ngõ

Trên cạnh đàn cúng, phía dưới mặt đất, đặt một quả bầu khô lấy ra hết ruột và hạt, bỏ vào đó đầy trấu và cắm một chiếc cần tre nhỏ làm ché rượu giả để dâng cho thần. Đồng bào chặt khúc thân cây chuối dài cỡ một gang tay, cắm 4 que làm 4 chân voi, cắm 1 que làm đuôi, 1 que làm vòi và 2 que làm ngà, tạo thành một con voi giả để dâng cho các thần. Trên lưng con voi giả có hình người ngồi, cũng làm bằng thân chuối, tượng trưng một nài voi. Trên lưng con voi giả đặt 6 mảnh vỏ bầu khô có hình tròn làm bộ chiêng giả tượng trưng cho bộ chiêng gồm có sáu chiếc mà đồng bào M’nông thường diễn tấu trong các lễ hội truyền thống. Đằng sau con voi giả còn có hai con trâu giả làm bằng thân cây chuối. Tất cả đồ vật được chuẩn bị như ché rượu, voi giả, trâu giả đặt trên mặt đất phía ngoài sạp.

Các già làng khấn vái nhắn nhủ thần Than bếp về những nguyện vọng, mong ước của dân làng. Chủ làng xuất một ché rượu và một con lợn to để thiết đãi những người tham gia nghi lễ cúng bái. Chủ làng và các già làng cúng vái xin thần linh, ma tốt bảo vệ buôn làng, đừng cho các thần ác vào làng làm hại, phá phách của cải, tài sản, hoa màu và gây ra dịch bệnh, tai ương cho người dân trong làng.
 
Theo langvietonline.vn
Dân tộc M'nông Dân tộc M'nông

Tên tự gọi: Mnông.

Nhóm địa phương: Mnông Gar, Mnông Nông, Mnông Chil, Mnông Kuênh, Mnông Rlâm, Mnông Preh, Mnông Prâng, Mnông Ðíp, Mnông Bhiêt, Mnông Sitô, Mnông Bu Ðâng, Mnông Bu Nor, Mnông Bu Ðêh...

Dân số: 102.741 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Người Mnông là cư dân sinh tụ lâu đời ở miền trung Tây Nguyên nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Mnông trồng lúa nương trên rẫy bằng phương pháp "đao canh hoả chủng": phát, đốt rồi chọc lỗ tra hạt; thu hoạch theo lối tuốt lúa bằng tay. Họ trồng lúa nước bằng phương pháp "đao canh thuỷ nậu" trên những vùng đầm lầy, dùng trâu để quần ruộng cho nhão đất rồi gieo hạt, không cấy mạ như ở đồng bằng. Ðiều đáng lưu ý là vai trò của cái cuốc trong nền nông nghiệp cổ truyền Mnông. Ði đôi với nền sản xuất nông phẩm, việc săn bắn, hái lượm còn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày.

Sản xuất thủ công nghiệp gia đình phổ biến là nghề đan đồ gia dụng bằng nguyên liệu mây, tre, lá; thứ đến là nghề trồng bông dệt vải do phụ nữ đảm nhiệm. Trong mỗi làng còn có một số người biết làm gốm thô, nặn bằng tay và nung lộ thiên. Sản phẩm là nồi đất các loại, bát ăn cơm và vò, hũ. Nghề rèn nông cụ không được phát triển lắm trong các vùng Mnông. Ðặc biệt ở vùng Buôn Ðôn, cư dân có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng rất nổi tiếng. Cho đến nay nghề này vẫn được tiếp tục duy trì tuy số voi săn bắt được hàng năm đã giảm đi đáng kể.

Ăn: Họ ăn cơm gạo tẻ nấu trong những nồi đất nung, xa xưa thì phổ biến là cơm lam (gạo nếp nấu trong ống nứa). Bữa ăn trưa ở trên ruộng rẫy thường là món cháo chua đựng trong những trái bầu khô. Thức ăn chủ yếu là muối ớt, canh rau rừng, thịt chim, thú và cá suối bắt được. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm không phát triển. Rau củ được trồng trên rẫy để bổ sung cho nguồn thức ăn do hái lượm đem lại. Thức uống phổ biến là rượu cần.

Mặc: Về mùa nóng, đàn ông xưa kia thường đóng khố ở trần; còn đàn bà thì quấn váy tấm và cũng ở trần. Về mùa lạnh, họ khoác thêm trên mình một tấm mền, kiểu phục sức rất phổ biến ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Hiện nay trong trang phục Mnông đã tiếp thu nhiều yếu tố Việt. Tập quán "cà răng căng tai" phổ biến trong xã hội cổ truyền, đến nay chỉ còn lại dấu ấn ở lứa tuổi những người cao niên.

: Hiện nay người Mnông cư trú tập trung theo nhóm địa phương, chủ yếu ở các huyện: Lắc, Mdrắc, Ðắc Nông, Ðắc Mil, Krông Pách, Ea Súp, Buôn Ðôn... thuộc tỉnh Ðắk Lắk; một bộ phận cư trú ở phía bắc tỉnh Sông Bé và tây nam tỉnh Lâm Ðồng; địa bàn phân bố về phía tây đến tận miền đông Cam-pu-chia, giáp ranh với biên giới nước ta. Tuỳ theo vùng và từng nhóm địa phương mà họ xây cất nhà trệt hoặc nhà sàn.

Nhà trệt có mái tranh gần sát đất và nền đất là mặt bằng sinh hoạt, rất phổ biến ở nhóm Mnông Gar, Mnông Preh, Mnông Prâng... Còn nhà sàn thường là sàn thấp, chỉ cách mặt đất khoảng 0m70 đến1m00 và phổ biến ở nhóm Mnông Kuênh, Mnông Chil, Mnông Bhiêt... Riêng nhóm Mnông Rlâm ở vùng hồ Lắc xây cất nhà sàn cao theo kiến trúc của người Ê Ðê. Dù là nhà sàn hay nhà trệt thì mái vẫn là cỏ tranh: khung và sườn nhà được kết hợp 2 loại nguyên liệu là tre nứa và gỗ cây... Các bộ phận được liên kết bằng chạc, ngoãm, dây mây và dây rừng.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng nhờ có 2 quai quàng qua đôi vai. Việc vận chuyển bằng voi là phương thức đặc biệt được chú trọng ở vùng người Mnông. Việc đi lại, vận chuyển trên sông, hồ có thuyền độc mộc.

Quan hệ xã hội: Ðơn vị cư trú cơ bản gọi là bon hay uôn, tương ứng với làng, xóm. Các gia đình trong làng có quan hệ láng giềng, quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân. Làng nhỏ có độ mươi nóc nhà, làng lớn có khi tập trung đến vài chục nóc. Quan hệ huyết thống ở đây tính theo dòng họ mẹ. Dấu vết của chế độ mẫu hệ còn rất đậm nét trong mọi quan hệ xã hội hiện nay. Song tập quán mẫu hệ đã và đang tan rã ở nhiều thang bậc khác nhau theo từng nhóm địa phương.

Trong xã hội cổ truyền người đứng đầu mỗi làng gọi là Rnút hay Kroanh bon, bên cạnh có người phụ tá gọi là Rnoi, Rnớp. Khi cần chiến đấu thì cử ra một chức sắc gọi là Né tăm lăm lở làm thủ lĩnh quân sự. Xã hội Mnông vận hành theo tập quán pháp và Tập quán pháp ca được truyền khẩu qua các thế hệ để làm chuẩn mực cho mọi ứng xử trong đời sống.

Cưới xin: Phụ nữ thường chủ động hơn trong việc hôn nhân. Lễ cưới do 2 bên cùng tổ chức. Sau hôn nhân phổ biến là cư trú phía nhà gái. Ở nhiều nhóm địa phương lại phổ biến hình thức luân cư song phương. Con sinh ra đều mang họ mẹ. Trong tập quán cưới xin có 3 nghi lễ là Sa ur, Tâm ốp và Tám nsông tương ứng với lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ thành hôn. Chế độ một vợ một chồng là quy tắc chặt chẽ trong quan hệ hôn nhân. Luật tục Mnông phạt vạ rất nghiêm khắc với tội loạn luân và ngoại tình.

Ma chay: Khi có người chết, cả làng nghỉ việc đồng áng để cùng lo mai táng, ma chay. Thi hài được quàn tại nhà khoảng 2 ngày đối với người chết già, chết vì bệnh tật. Họ rất kinh hãi và chối bỏ việc ma chay đối với mọi cái chết do tai nạn gây nên (chết đuối, ngã cây, rắn cắn, hổ vồ... và chết do chiến tranh, đâm chém). Những cái chết "bất đắc kỳ tử" như vừa nêu thì thi hài không được đem vào nhà mà phải mai táng tức khắc một cách thầm lặng. Thổ táng là hình thức duy nhất trong việc tang ma, không có tập quán cải táng. Mọi người chết đều được chia tài sản để mang về "lập nghiệp" ở thế giới của ông bà gọi là Phan.

Nhà mới: Khi một ngôi nhà được xây cất hoàn tất thì lễ khánh thành để vào nhà mới sẽ được tổ chức linh đình bằng một ngày tiệc mặn cúng hiến sinh heo. Sau bữa ăn rồi mới đến tiệc rượu cần rất rôm rả trong tiếng nhạc cồng chiêng.

Lễ tết: Lễ hội đâm trâu là lễ hội cổ truyền được coi trọng nhất. Kết thúc mùa thu hoạch lúa hàng năm, mỗi làng đều tổ chức tết ăn mừng cơm mới, tạ ơn trời đất và thần lúa. Trâu được hiến sinh trong hội lễ tưng bừng để chuẩn bị cho một mùa vụ mới tràn đầy hy vọng.

Lịch: Nông lịch cổ truyền Mnông tính theo lịch âm, dựa vào quy trình canh tác rẫy. Mỗi năm cũng có 12 tháng, mỗi tháng có từ 29 đến 30 ngày.

Học: Trong xã hội cổ truyền Mnông chưa có chữ viết, chỉ có văn chương truyền miệng. Việc giáo dục, học tập được thực hiện bằng phương pháp chỉ dẫn trực tiếp, làm mẫu noi theo, bắt chước. Thập kỷ gần đây mới xuất hiện chữ viết nhưng sự phổ biến rộng rãi đang vấp phải không ít trở ngại.

Văn nghệ: Kho tàng truyện cổ, đặc biệt là sử thi và tập quán pháp ca tiềm ẩn nhiều giá trị, đã và đang được khai thác giới thiệu. Tục ngữ, ca dao, dân ca rất phong phú. Nhạc cụ có cồng chiêng, kèn bầu, kèn sừng trâu, kèn môi, đàn độc huyền, đàn 8 dây, sáo dọc. Ðặc biệt là vỏ trái bầu khô được sử dụng một cách phổ biến để tạo nên bộ phận khuếch đại âm thanh trong nhiều nhạc cụ bằng tre, nứa. Người ta đã tìm thấy ở vùng cư trú của người Mnông bộ đàn đá nguyên thuỷ nổi tiếng từ giữa thế kỷ XX.

Chơi: Trẻ em thường thích chơi diều, đánh cù, bịt mắt bắt dê, chạy, nhảy...

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm