Kiến trúc nhà ở của người Cống

Kiến trúc nhà ở của người Cống
Đã bao đời nay, nhà sàn vẫn gắn liền với cuộc sống của người Cống. Tuy nhiên, nhà sàn của họ vẫn mang được những nét đặc trưng kiến trúc riêng biệt, độc đáo và phù hợp với phong tục tập quán.
Với người Cống, nhà ở luôn đóng vai trò quan trọng trong đời sống sinh hoạt cũng như trong đời sống tín ngưỡng tinh thần. Nhà ở của người Cống luôn mang những đặc trưng riêng.
 
Để bắt đầu dựng nhà, người Cống phải chọn thế đất tốt, gần nguồn nước. Căn cứ vào đó mà định hướng hướng nhìn của ngôi nhà. Thông thường, nhà sàn của họ nhìn xuống chân núi hoặc nhìn ra sông.
 
Đồng bào người Cống ở nhà sàn ba gian hoặc bốn gian được làm bằng gỗ rừng. Gian trong cùng là gian có buồng ngủ của bố mẹ và bếp nấu cơm. Gian giữa có bếp sưởi là nơi tiếp khách, nơi ngủ của khách. Bên cạnh nơi ngủ của khách là buồng của con trai cả và vợ, rồi đến buồng của con thứ... Con gái và rể (ở rể) ngủ ở gian ngoài cùng gần cửa ra vào. Các gian được ngăn cách thành buồng bằng các phên vách bằng lá hoặc gỗ.
Mái nhà sàn được lợp bằng các tấm lợp bện từ cây cỏ. Mái nhà có bốn mái, cao tạo nên sự thoáng mát, rộng rãi cho ngôi nhà. Trong nhà của người Cống có hai đặc trưng riêng, mà chỉ cần nhìn thôi chúng ta cũng nhận ra nhà sàn của họ.
Thứ nhất, trong thiết kế ngôi nhà của người Cống chỉ có một cửa ra vào và một cửa sổ ở gian giữa. Cửa sổ được chắn song và phên đan dày có thể xê dịch được.
Nhà sàn dân tộc Cống
Nhà sàn dân tộc Cống

Thứ hai, mỗi nhà sàn đều có một cái sàn nhỏ ở phía sau hàng cột trên cùng. Nó cao hơn sàn chính 15 - 16 cm và rộng 0,05 - 0,09 cm. Sàn này được cấu tạo bằng cách kê một cây gỗ dọc chạy suốt hai đầu nhà rồi dùng những thanh gỗ ngang gác lên hai bên. Phía trên đặt dát tre, vầu theo chiều dọc.
 
Điều đặc biệt là nơi đặt bàn thờ trong ngôi nhà. Người Cống tùy theo từng họ mà đặt bàn thờ ở các vị trí khác nhau. Đối với các họ Lò, Chang, Chảo bàn thờ tổ tiên thường đặt trong buồng của bố mẹ, ở phên vách phía trước, giữa hai hàng cột trong buồng. Bàn thờ của họ Ly lại để gần cột cạnh bếp, phía ngoài phên vách ngăn buồng bố mẹ. Bàn thờ được làm đơn giản. Nó có thể là một miếng phên nhỏ (rộng 40cm) được buộc vào áp vách cùng với một cọc gỗ dài. Nếu vách đan phên kép thì không cần miếng phên nhỏ mà chỉ cần một cọc gỗ là đủ.
Cũng như nhiều ngôi nhà sàn của các dân tộc khác, trong nhà của người Cống cũng có những đồ trang trí đồng thời là vật dụng trong nhà hoặc các nhạc cụ.
 
Các ngôi nhà của người Cống đều được những bàn tay khéo léo của những người dân trong làng dựng nên. Những ngôi nhà sàn tuy tuy không lộng lẫy, sang trọng nhưng mang đến cho người ở sự thoải mái, mộc mạc của núi rừng đại ngàn.
Theo dantocviet.cinet.gov.vn
Dân tộc Cống Dân tộc Cống

Tên tự gọi: Xắm khống, Phuy A.

Dân số: 2.029 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (ngữ hệ Hán - Tạng) gần hơn với tiếng Miến, cùng nhóm với các tiếng La Hủ, Phù Lá, Si La... Họ quen sử dụng tiếng Thái trong giao dịch hàng ngày.

Lịch sử: Người Cống có nguồn gốc di cư trực tiếp từ Lào sang.

Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương, đang chuyển sang làm nương cuốc, ruộng. Hái lượm còn giữ vai trò quan trọng. Người Cống không quen dệt vải, chỉ trồng bông để đổi lấy vải của các dân tộc khác. Họ giỏi đan chiếu mây nhuộm đỏ, các đồ đựng bằng tre nứa như gùi đeo, giỏ đựng cơm, rương hòm... Chuyển xuống định cư ven sông Ðà, nên người Cống quen dần với việc sử dụng thuyền trên sông.

Ăn: Người Cống ăn cơm nếp và cơm tẻ.

Mặc: Y phục của người Cống giống người Thái. Một ít gia đình còn giữ lại vài bộ y phục truyền thống bằng vải dệt của người Lào.

: Nhà sàn ba hay bốn gian, chỉ có một cửa ra vào, một cửa sổ ở gian giữa, chạy dọc theo vách mặt chính của nhà có thêm một chiếc sàn nhỏ ít có giá trị sử dụng nhưng nhà nào cũng có là đặc trưng trong nhà người Cống.

Phương tiện vận chuyển: Người Cống quen sử dụng thuyền đi lại trên sông Ðà và gùi đeo qua trán khi đi nương, đi rẫy.

Quan hệ xã hội: Người Cống ở khá tập trung trong các làng bản có quy mô vừa và lớn. Tính cộng đồng làng bản cao. Phụ nữ có vai trò quan trọng trong gia đình cũng như xã hội.

Trong xã hội cổ truyền, chưa có sự phân hoá giai cấp, chịu sự chi phối chặt chẽ của hệ thống chức dịch người Thái.

Dân số ít song người Cống có tới 13 dòng họ khác nhau. Ða số các dòng họ mang tên Thái như: Lò, Quang, Kha... dấu vết tô tem giáo còn rõ nét với tục kiêng và thờ các loại chim muông, thú vật. Mỗi dòng họ thường có người đứng đầu với chức năng chủ trì các công việc liên quan tới đời sống tinh thần.

Cưới xin: Hôn nhân một vợ một chồng chặt chẽ. Không có đa thê, ly dị trong xã hội truyền thống.

Tục ở rể được thực hiện nghiêm ngặt, trước kia khoảng 8 - 12 năm. Lễ vật truyền thống trong lễ xin con trai tới ở rể thường vào buổi tối là gói muối, gói chè, cuộn dây gai đan chài, hay một ống rượu cần... Ngay sáng hôm sau, người con trai mang chăn, gối, con dao tới nhà gái ở rể, cũng từ đó người con gái búi tóc ngược đỉnh đầu, dấu hiệu của người đã có chồng.

Lễ đón dâu về nhà trai khi hạn ở rể đã hết, lúc đó đôi vợ chồng đã con cái đầy nhà. Của hồi môn bố mẹ cho con cái mang về nhà chồng. Nếu nhà trai người cùng bản phải cõng cô dâu về tận nhà. Trong ngày cưới, người ta không mặc quần áo mới vì có tục vẩy nước tro lên đoàn đón dâu trước khi ra về để cầu may.

Sinh đẻ: Sản phụ đẻ ngồi. Trước và sau khi đẻ phải kiêng kỵ nhiều thứ. Người Cống rất giỏi trong việc tìm kiếm lá thuốc để chăm sóc phụ nữ khi sinh nở.

Ma chay: Khi nhà có người chết, phải mời thầy mo tới làm lễ cúng đưa hồn về với tổ tiên. Việc chọn ngày chôn được coi trọng. Trong những ngày trước hôm chôn, thường phải cúng cơm cho người chết, buổi tối có các nghi thức nhảy múa truyền thống. Sau khi táng có làm nhà mồ đơn giản. Mười hai ngày sau khi chôn người chết, con cháu mới lập bàn thờ trong nhà. Con cái để tang cha mẹ bằng cách cạo trọc đầu (con trai), cắt tóc mai (con gái) và đội khăn tang cho tới khi cúng cơm mới, mới được bỏ.

Thờ cúng: Cùng với việc cúng tổ tiên 2, 3 đời theo phụ hệ là việc cúng ma bố mẹ vợ vào dịp tết. Bố chủ trì việc cúng. Nếu bố chết, mẹ thay thế. Khi anh em chia nhà ra ở riêng, mỗi người con trai lập bàn thờ cúng riêng tại nhà mình. Lễ vật cúng tổ tiên chỉ có bát gạo, ống nước và con gà. Người cúng ôm gà ngồi trước bàn thờ khấn, xong giết gà ngay tại chỗ, bôi máu vào lá dong, gói lại cài lên vách nơi thờ cúng vài ba chiếc lông gà.

Hàng năm cứ đến tháng ba âm lịch, các bản đều tổ chức lễ cúng bản trước vụ gieo hạt, các ngả đường vào bản làm cổng, cắm dấu hiệu kiêng kỵ một ngày không ai được vào bản.

Các gia đình đều làm lễ cúng trên nương trước khi kết thúc công việc tra hạt. Ðêm đó chủ nhà làm lễ cúng ở phía trên lều nương; lễ vật chỉ có cá, cua, cầu mong chim thú không phá hại; trồng vài khóm kiệu cầu xin lúa tốt, xanh tươi như khóm cây này.

Học: Việc giáo dục truyền thống thông qua kinh nghiệm truyền từ đời này sang đời khác kết hợp với thực hành.

Văn nghệ: Người Cống thường hát múa vào dịp lễ tết, nhất là trong đám cưới. Hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái hôm đón dâu ở chân cầu thang trước khi lên nhà thực sự là một cuộc thi hát dân gian. Trai gái, già trẻ đều vui múa trong ngày cưới. Ðặc biệt là điệu múa đầu tiên do các em gái của chàng rể trình diễn để bắt đầu cuộc vui. Họ vừa múa, vừa giơ cao các tặng vật truyền thống như con gà, con sóc, cá khô mà người anh trai tặng mình.

vna_potal_tet_hoa_mao_ga_cua_dong_bao_dan_toc_cong_o_xa_bien_gioi_pa_thom_dien_bien_7100996.jpg
Thầy cúng của bản thực hiện nghi lễ cúng trong ngày Tết hoa mào gà. Ảnh: Xuân Tư – TTXVN

Chơi: Các trò chơi tập thể như đuổi bắt, đánh khăng... được trẻ em ưa thích. Ngoài ra, chúng còn chơi các loại đồ chơi bằng tre gỗ tự chế.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm