Giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc Khmer

Giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc Khmer

Tỉnh Trà Vinh có gần 330.000 người là dân tộc Khmer, chiếm hơn 31,5% dân số của tỉnh. Để giảm nghèo bền vững vùng đồng bào dân tộc Khmer, cùng với việc thực thi các chính sách dân tộc, hoàn thiện hệ thống hạ tầng, tỉnh chú trọng các giải pháp hỗ trợ hộ Khmer sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng để tăng hiệu quả kinh tế trên cùng một đơn vị diện tích. Đồng bào Khmer địa phương phần lớn cư trú ở nông thôn với nguồn thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp.

Giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc Khmer ảnh 1Nhiều hộ nông dân Khmer trên vùng giồng cát tỉnh Trà Vinh chuyển sang trồng các loại cây màu chịu hạn, thích ứng với biến đổi khí hậu, cho hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: Phúc Thanh

Trà Cú là huyện nghèo vùng sâu của tỉnh Trà Vinh với dân số hơn 156.000 người, trong đó, đồng bào Khmer chiếm hơn 62%. Đây là địa phương có tỷ lệ đồng bào Khmer cao nhất tỉnh. Ông Huỳnh Văn Thảo, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Trà Cú cho biết, toàn huyện có 14.000 ha đất trồng lúa, hơn 6.000 ha trồng màu và trên 1.100 ha nuôi thủy sản. Là địa bàn thuần nông, nên những năm qua, huyện ưu tiên hỗ trợ người dân phát triển sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Trong 5 năm qua, huyện đã chuyển đổi hơn 7.400 ha đất sản xuất các loại cây kém hiệu quả sang các cây, con có giá trị kinh tế cao, cho hiệu quả tăng gấp nhiều lần trên cùng vùng đất. Nhiều mô hình cho lợi nhuận cao hơn từ 3 lần trở lên sau chuyển đổi, đang tiếp tục được nhân rộng tại địa phương, như nuôi lươn thương phẩm, nuôi tôm, trồng lúa hữu cơ, rau an toàn, khoai môn, lạc, ớt chỉ thiên...

Bà Quách Thị Út, xã An Quảng Hữu, huyện Trà Cú trồng rau an toàn khoảng 5 năm nay. Bà Út chia sẻ, trước đây, nông dân địa phương chủ yếu trồng lúa nhưng năng suất rất thấp do địa phương thường xuyên bị thiếu nước tưới vào mùa khô. Từ khi được địa phương vận động chuyển sang trồng rau an toàn, tham gia tổ hợp tác, vườn rau 2.000 mét vuông của gia đình bà luôn cho thu nhập bình quân khoảng 8 triệu đồng/tháng. Vì thị trường đầu ra nông sản an toàn khá ổn định nên  nhiều hộ trên địa bàn đã thoát nghèo, thu nhập được cải thiện đáng kể.

Giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc Khmer ảnh 2Làng nghề đan lát các sản phẩm từ tre, trúc ở ấp Giồng Đình, xã Đại An, huyện Trà Cú (Trà Vinh) mỗi năm sản xuất hàng chục ngàn sản phẩm như: giỏ, thúng, rổ..., tạo việc làm ổn định cho hàng trăm lao động dân tộc Khmer tại địa phương. Ảnh: Phúc Thanh

Theo Chủ tịch UBND huyện Trà Cú Lê Hồng Phúc, được Trung ương và tỉnh quan tâm, cùng quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của nhân dân trên địa bàn, thời gian qua huyện đã thực hiện nhiều giải pháp lồng ghép đồng bộ các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội,  các chính sách an sinh xã hội nên bộ mặt nông thôn các xã vùng sâu, vùng khó khăn có nhiều đổi mới.

Giai đoạn 2011-2020, huyện đã giải ngân tổng số tiền gần 1.772 tỷ đồng thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhờ vậy, hàng nghìn hộ nghèo trên địa bàn huyện được hỗ trợ vốn phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế, đào tạo nghề, tạo việc làm, hỗ trợ nhà ở, đất ở…

Giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc Khmer ảnh 3Nông dân huyện Châu Thành (Trà Vinh) được hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho thu nhập tăng gấp 4 lần so với trồng lúa. Ảnh: Thanh Hòa

Xác định một trong những nguyên nhân dẫn đến nghèo là do thiếu vốn sản xuất, lãnh đạo huyện đã chỉ đạo các xã, thị trấn phối hợp Phòng Giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện thực hiện đầu tư tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo. Đây là giải pháp tích cực giúp các hộ nghèo có nguồn vốn làm ăn để vươn lên thoát nghèo bền vững. 10 năm qua, đã có hơn 65.000 lượt hộ được vay ưu đãi tổng số tiền hơn 791 tỷ đồng. Đến cuối năm 2019, thu nhập bình quân đầu người của huyện đạt 40,52 triệu đồng/người/năm, tăng 28 triệu/người/năm so với năm 2011. Tỷ lệ hộ nghèo của huyện từ hơn 33% (cuối năm 2010) đã giảm còn 4,6% (cuối năm 2019).

Tương tự, hàng nghìn hộ nghèo, cận nghèo, hộ nghèo dân tộc, hộ nghèo có chủ hộ là nữ, hộ nghèo thuộc đối tượng chính sách, người có công, hộ nghèo thuộc đối tượng chính sách bảo trợ xã hội ở huyện Duyên Hải được tiếp cận được các chính sách của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhờ vậy, tỷ lệ hộ nghèo của huyện được kéo giảm bình quân 4,5%/năm, riêng các xã đặc biệt khó khăn giảm 5,3%/năm, hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 6,5% theo chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2016 – 2020.

Huyện Duyên Hải xác định việc hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác giảm nghèo. Vì vậy, huyện tích cực triển khai chương trình trợ giúp trực tiếp về giống cây, vật tư nông nghiệp cho hộ nghèo tại các địa phương tùy theo điều kiện thực tiễn. Theo đó, nhiều hộ nghèo đã mạnh dạn đầu tư trồng trọt, phát triển kinh tế, từng bước ổn định cuộc sống và  tích lũy lợi nhuận để tái đầu tư sản xuất.

Bà Thạch Thị Hiền, xã Đôn Châu, huyện Duyên Hải chia sẻ, nhờ sự hỗ trợ vốn sản xuất kịp thời của chính quyền, đoàn thể xã Đôn Châu và huyện Duyên Hải, gia đình bà mới thoát được nghèo. Việc hỗ trợ đã giúp gia đình bà giải quyết khó khăn kinh tế, vừa tạo động lực để thành viên trong gia đình hăng hái lao động, sản xuất. Theo bà Hiền, gia đình bà thuộc diện hộ nghèo nhiều năm do thiếu vốn sản xuất. Đầu năm 2018, được Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Duyên Hải hỗ trợ vốn 12 triệu đồng đầu tư xây dựng nhà lưới trồng rau màu, cây giống, hệ thống tưới tiêu. Bên cạnh đó, gia đình tranh thủ ngồn vốn hỗ trợ sinh kế cho phụ nữ nghèo làm chủ hộ của Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Đôn Châu, cùng vốn đối ứng, bà đầu tư gần 30 triệu đồng xây dựng nhà lưới trồng rau an toàn trên diện tích 1.000 mét vuông. Thêm sự cần cù, vượt khó của các thành viên trong gia đình, cuối năm 2018, hộ bà Thạch Thị Hiền đã thoát nghèo thành công. Từ lợi nhuận trồng rau màu, bà Hiền mạnh dạn chăn nuôi bò sinh sản để tăng thêm nguồn thu nhập, phát triển kinh tế gia đình.

Giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc Khmer ảnh 4Thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp tại xã Phước Hưng, huyện Trà Cú (Trà Vinh). Ảnh: Phúc Thanh


Gia đình ông Thạch Vơ, xã Đôn Xuân, huyện Duyên Hải chỉ có 1.000 mét vuông sản xuất nông nghiệp nhưng hiện có thu nhập rất ổn định nhờ được hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý, thu nhập từ 80-100 triệu đồng/năm, tăng gấp 4-5 lần so với trồng lúa trước đó. Ông Thạch Vơ chia sẻ, trước đây gia đình là hộ nghèo thường xuyên ở địa phương. Năm 2013, ông vay vốn 15 triệu đồng từ Ngân hàng chính sách xã hội để phát triển sản xuất, cải thiện kinh tế gia đình.

Được chính quyền hướng dẫn, ông dùng số tiền này nuôi bò sinh sản; đồng thời chuyển đổi 1.000 mét vuông đất trồng lúa sang trồng màu trong nhà lưới. Hiện, ruộng rau của ông luân canh các loại như rau muống, hành lá, khổ qua…  8 vụ/năm cho thu nhập bình quân từ 80-100 triệu đồng/năm. Ông cũng xuất bán được nhiều lứa bê với lợi nhuận 10 triệu đồng/con. Gia đình ông đã trả được nợ ngân hàng, thoát nghèo, kinh tế gia đình hiện khá ổn định.

Tỉnh Trà Vinh hiện còn 1 huyện nghèo loại II, 23 xã khu vực III, 10 ấp đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số thuộc diện đầu tư của Chương trình 135; 4 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, 6 xã đảo và 5 xã an toàn khu. Đến cuối năm 2019, tỉnh còn 9.214 hộ nghèo, giảm 2,73% so với năm 2018, trong đó hộ nghèo dân tộc Khmer còn 5.394 hộ, giảm 5,22%.  Năm 2020, Trà Vinh đặt mục tiêu giảm tối thiểu 1,5% số hộ nghèo, riêng hộ dân tộc Khmer nghèo giảm từ 2-3%./.

Thanh Hòa, Phúc Thanh

(DTMN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm