Dự kiến cần 610.000 tỷ đồng cho an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập đến năm 2030

Đập Khe Xai có diện tích lưu vực gần 1 km2, được xây dựng từ năm 1989 đã bị nứt gãy, gây thẩm thấu nước qua thân đập. Ảnh: Hoàng Ngà - TTXVN
Đập Khe Xai có diện tích lưu vực gần 1 km2, được xây dựng từ năm 1989 đã bị nứt gãy, gây thẩm thấu nước qua thân đập. Ảnh: Hoàng Ngà - TTXVN

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa có Tờ trình Chính phủ về đề án "An ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2045”.

Dự kiến cần 610.000 tỷ đồng cho an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập đến năm 2030 ảnh 1 Đập Khe Xai có diện tích lưu vực gần 1 km2, được xây dựng từ năm 1989 đã bị nứt gãy, gây thẩm thấu nước qua thân đập. Ảnh: Hoàng Ngà - TTXVN

Theo đó, nguồn vốn dự kiến thực hiện tối thiểu 610.000 tỷ đồng đến năm 2030; trong đó, ngân sách trung ương 310.000 tỷ đồng, địa phương 250.000 tỷ đồng; huy động xã hội hóa và các nguồn vốn hợp pháp khác 50.000 tỷ đồng.

Để đảm bảo mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, đưa Việt Nam thành nước phát triển vào năm 2045 như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra, có nhiều vấn đề cần giải quyết, việc đảm bảo an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước là chìa khóa then chốt.

Dự thảo Đề án đưa ra mục tiêu bảo đảm số lượng, chất lượng nước cấp cho sinh hoạt trong mọi tình huống; đáp ứng nhu cầu nước cho sản xuất và các ngành kinh tế quan trọng, thiết yếu; giảm phụ thuộc vào các nguồn nước liên quốc gia. Ứng phó hiệu quả với các loại hình thiên tai liên quan đến nước, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, bảo đảm sức khỏe, đời sống, sản xuất của người dân.

Bảo đảm an toàn tuyệt đối đập, hồ chứa nước quan trọng; chủ động ứng phó khi có sự cố, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; chủ động tích, trữ, điều hòa nguồn nước.

Cụ thể, đến năm 2030, đảm bảo cân đối đủ nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ và các ngành kinh tế quan trọng; đầu tư xây dựng các hồ chứa nước lớn, hệ thống chuyển nước liên vùng; hoàn thành sửa chữa, nâng cấp các hồ chứa nước hư hỏng, xuống cấp, thiếu năng lực phòng, chống lũ.

Khi đó, 100% dân cư thành thị, 65% dân số nông thôn, 100% các đảo có đông dân cư được cấp nước sạch đạt quy chuẩn; 30% diện tích cây trồng được thực hiện phương thức canh tác tiên tiến và tưới tiết kiệm nước. Có 50% tổng lượng nước thải sinh hoạt đô thị được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường. 100% cơ sở gây ô nhiễm môi trường nước nghiêm trọng được xử lý. Bên cạnh đó, 100% các đô thị không còn tình trạng ngập úng thường xuyên trong mùa mưa.

Đến năm 2045, dự thảo đề án đặt ra mục tiêu sẽ hoàn thành xây dựng các công trình lớn điều tiết mặn, ngọt, dâng nước, trữ nước trên các hệ thống sông, hoàn thành xây dựng các hồ chứa nước lớn. Hình thành mạng lưới liên kết, chuyển nước vùng, quốc gia. 100% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn; 70% diện tích cây trồng được thực hiện phương thức canh tác tiên tiến và tưới tiết kiệm nước...

Cơ bản 100% các nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt được xử lý, phục hồi; 100% các cơ sở khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước trên phạm vi cả nước được kiểm soát, áp dụng công nghệ tiên tiến, tiết kiệm nước. Đồng thời, nâng chỉ số an ninh nguồn nước quốc gia lên nhóm các quốc gia đảm bảo an ninh nguồn nước hiệu quả trong khu vực.

Để đạt các mục tiêu trên, các bộ, ngành, địa phương sẽ rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến nước theo hướng quản lý nhu cầu, kinh tế hóa, xã hội hóa, chuyển đổi số…; huy động nguồn lực, tạo điều kiện, động lực cho tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, quản lý, vận hành kết cấu hạ tầng ngành nước.

Ngân sách nhà nước tiếp tục ưu tiên đầu tư các công trình khó huy động nguồn lực xã hội, xây dựng công trình lớn, quan trọng đặc biệt, công trình ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng khan hiếm nước, vùng bị ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu.

Vốn đầu tư công mang tính dẫn dắt, là vốn mồi để thu hút lan tỏa vốn xã hội, hỗ trợ cho các dự án kém hấp dẫn nhưng có hiệu quả cho các vùng khó khăn nhằm chia sẻ rủi ro với các nhà đầu tư.

Việc thu hút nguồn vốn ODA để đầu tư công trình trữ nước, liên kết, kết nối nguồn nước, công trình đảm bảo an sinh xã hội. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, quản lý, khai thác và cung cấp dịch vụ nước; tăng nguồn thu từ sản phẩm, dịch vụ về nước, dịch vụ môi trường rừng; coi nước là hàng hóa, đảm bảo tính đúng tính đủ giá trị của nước.

Để chủ động cấp, tưới, tiêu, thoát nước, dự thảo đề án đưa ra giải pháp phi công trình là tổ chức lại các ngành sản xuất, đặc biệt đối với sản xuất nông nghiệp bảo đảm phù hợp với điều kiện nguồn nước ở từng vùng, địa phương. Củng cố, kiện toàn các tổ chức quản lý, khai thác công trình thủy lợi để quản lý, khai thác tối đa hiệu quả, đồng thời bảo đảm an toàn các công trình thủy lợi...

Giải pháp công trình được đưa ra là xây dựng các hồ chứa nước phục vụ đa mục tiêu, công trình kiểm soát mặn-ngọt tại vùng cửa sông lớn, công trình chuyển nước, kết nối, liên kết nguồn nước, khép kín hệ thống thủy lợi, bảo đảm chủ động trữ nước ngọt, điều hòa, phân phối nguồn nước. Từ đó, hình thành mạng lưới nguồn nước quốc gia, chủ động điều tiết, phân bổ nước cho vùng kinh tế trọng điểm, ven biển miền Trung, Đồng bằng sông Cửu Long.

Đầu tư xây dựng, hoàn thiện các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn, đô thị, ưu tiên đầu tư cho khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn. Cùng với đó là bảo đảm chất lượng môi trường nước.

Về an toàn đập, hồ chứa nước, giải pháp phi công trình là rà soát, đánh giá lại công năng, nhiệm vụ, quy trình vận hành của đập, hồ chứa nước tăng năng lực trữ nước, ứng phó với mưa lũ cực đoan, vận hành theo thời gian thực và hướng tới phục vụ đa mục tiêu. Nâng cao hiệu quả sử dụng dung tích hồ chứa, điều tiết cắt, giảm lũ và cấp nước cho hạ du trong điều kiện xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.

Đồng thời, kiện toàn, củng cố tổ chức, phân cấp quản lý, khai thác đập, hồ chứa thủy lợi, thủy điện; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và trang thiết bị, ứng dụng khoa học, công nghệ, hiện đại hóa trong quản lý, vận hành đập, hồ chứa nước.

Giải pháp công trình là tập trung hoàn thành sửa chữa, nâng cấp các đập, hồ chứa hư hỏng, xuống cấp và thiếu khả năng chống lũ vào năm 2025, đặc biệt đối với đập, hồ chứa nước có nguy cơ mất an toàn cao, lưu vực tập trung dòng chảy lũ về hồ nhanh; bảo đảm kinh phí bảo trì theo quy định. Đồng thời, xây dựng mới các hồ chứa nước tại các vùng thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn…

Về xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá an ninh nguồn nước, theo đó sẽ tăng cường giám sát hoạt động khai thác, sử dụng nước mặt, nước dưới đất và xả nước thải vào nguồn nước. Theo dõi, giám sát chặt chẽ nguồn nước liên quốc gia. Xây dựng, vận hành hệ thống chỉ tiêu theo dõi, đánh giá an ninh nguồn nước quốc gia trên cơ sở nền tảng công nghệ, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến; vận hành, cập nhật hệ thống thường xuyên, định kỳ đánh giá mức độ đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia. Kết nối hệ thống chỉ tiêu theo dõi, đánh giá an ninh nguồn nước quốc gia.

Về hợp tác quốc tế, Việt Nam sẽ chủ động tham gia, mở rộng hợp tác quốc tế có hiệu quả về an ninh nguồn nước, quản lý an toàn đập, hồ chứa nước, thiết lập các cơ chế chia sẻ nguồn nước, giải quyết tranh chấp, xung đột nguồn nước xuyên biên giới.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiến nghị Chính phủ đề nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết phê duyệt đề án, đồng thời giao Chính phủ xây dựng chương trình đầu tư công để thực hiện đề án.

Tổng nhu cầu nước hàng năm hiện nay khoảng 101 tỷ m3, dự báo đến năm 2030 cần khoảng 111 tỷ m3, năm 2045 khoảng 130 tỷ m3; trong đó, nông nghiệp khoảng 83-85%, sinh hoạt từ 2-3%, công nghiệp từ 5-6%, môi trường từ 8-9%. Nông nghiệp vẫn là ngành sử dụng nước nhiều nhất trong tương lai nhưng nhu cầu sử dụng nước tăng ít hơn so với công nghiệp (tăng 160%) và đô thị (tăng 85%).

Hiện cả nước có 7.808 đập, hồ chứa nước với tổng dung tích khoảng 70,5 tỷ m3, trong đó 6.750 hồ chứa thủy lợi với tổng dung tích trữ khoảng 14,5 tỷ m3; 466 hồ thủy điện với tổng dung tích trữ 56 tỷ m3.

Bích Hồng

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm