Đồng bào Chăm vui tết Roya Haji

Cộng đồng dân tộc Chăm ở An Giang hiện có hơn 17.000 người theo đạo Hồi, sinh hoạt ở 12 thánh đường và 16 tiểu thánh đường tại 9 xóm, ấp thuộc thị xã Tân Châu và 4 huyện An Phú, Châu Phú, Châu Thành, Phú Tân. Ảnh: Công  Mạo
Cộng đồng dân tộc Chăm ở An Giang hiện có hơn 17.000 người theo đạo Hồi, sinh hoạt ở 12 thánh đường và 16 tiểu thánh đường tại 9 xóm, ấp thuộc thị xã Tân Châu và 4 huyện An Phú, Châu Phú, Châu Thành, Phú Tân. Ảnh: Công Mạo
Lễ Roya Haji của người Chăm Islam ở tỉnh An Giang diễn ra trong 3 ngày, bắt đầu từ ngày 10 tháng 12 Hồi lịch (năm nay tương ứng từ ngày 9 - 11/8 dương lịch). 
Một góc thánh đường Hồi giáo Mubarak ở xã Châu Phong, thị xã Tân Châu. Ảnh: Công Mạo
Một góc thánh đường Hồi giáo Mubarak ở xã Châu Phong, thị xã Tân Châu. Ảnh: Công  Mạo

Vào dịp này, người Chăm Islam tạm gác lại công việc làm ăn, buôn bán, đến thánh đường hành lễ nhiều hơn để có nhiều ân phước; Các gia đình sửa soạn lại nhà cửa, trang trí đèn hoa rực rỡ để đón mừng lễ Roya Haji.

Cộng đồng dân tộc Chăm ở An Giang hiện có hơn 17.000 người theo đạo Hồi, sinh hoạt ở 12 thánh đường và 16 tiểu thánh đường tại 9 xóm, ấp thuộc thị xã Tân Châu và 4 huyện An Phú, Châu Phú, Châu Thành, Phú Tân. Ảnh: Công Mạo
Cộng đồng dân tộc Chăm ở An Giang hiện có hơn 17.000 người theo đạo Hồi, sinh hoạt ở 12 thánh đường và 16 tiểu thánh đường tại 9 xóm, ấp thuộc thị xã Tân Châu và 4 huyện An Phú, Châu Phú, Châu Thành, Phú Tân. Ảnh: Công  Mạo

Người Chăm Islam gọi lễ Roya Haji là “Roya yêu thương”. Vào dịp lễ Roya Haji, bà con thường dành thời gian để tụ họp gia đình, đi thăm bạn bè, người thân và tặng họ những món quà ý nghĩa. Trẻ em được bố mẹ mua cho những trang phục mới, còn các bộ đồ cũ được tặng cho người nghèo. Đặc biệt, các gia đình, tín đồ Muslim (người theo đạo Hồi) khá giả sẽ thực hiện nghi thức Kurbal Bayram (lễ Hiến sinh), mua gia súc (bò, dê, cừu) mổ thịt để làm lễ, sau đó lấy thịt phân phát cho bà con trong làng để cùng chia sẻ niềm vui trong lễ Roya Haji.

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy An Giang Võ Anh Kiệt (thứ 6 trái qua) tặng quà cho các vị trong Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo Islam tỉnh An Giang, các giáo cả, Ban quản trị và đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn xã Châu Phong, thị xã Tân Châu. Ảnh: Công Mạo
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy An Giang Võ Anh Kiệt (thứ 6 trái qua) tặng quà cho các vị trong Ban đại diện cộng đồng Hồi giáo Islam tỉnh An Giang, các giáo cả, Ban quản trị và đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn xã Châu Phong, thị xã Tân Châu. Ảnh: Công  Mạo

Năm 2019 là năm đầu tiên tỉnh An Giang tổ chức buổi họp mặt các vị giáo cả, người có uy tín, nhân sĩ trí thức tiêu biểu dân tộc Chăm, đồng thời tổ chức thăm hỏi, tặng quà các hộ nghèo. Điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào dân tộc Chăm sinh sống trên địa bàn.
Công  Mạo
(DTMN)
Dân tộc Chăm Dân tộc Chăm

Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời...

Nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Poổng, Chà Và Ku, Chăm Châu Ðốc.

Dân số: 161.729 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo).

Lịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm pa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh ThuậnBình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc, Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.

Hoạt động sản xuất: Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.

Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.

Ăn: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền.

Mặc: Nam nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.

Vào dịp lễ Ramưwan, nam nữ người Chăm thường khoác lên mình trang phục truyền thống với nhiều sắc màu thể hiện bản sắc riêng của cộng đồng người Chăm. Ảnh Nguyễn Thanh.jpg
Vào dịp lễ Ramưwan, nam nữ người Chăm thường khoác lên mình trang phục truyền thống với nhiều sắc màu thể hiện bản sắc riêng của cộng đồng người Chăm. Ảnh Nguyễn Thanh

: Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên lưng. Cư dân Chăm cũng là những người thợ đóng thuyền có kỹ thuật cao để hoạt động trên sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ.

Quan hệ xã hội: Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. Ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niê và Mlô ở dân tộc Ê đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm...

Cưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân.

Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hoả táng. Nhóm cư dân theo đạo Bà la môn thường hoả táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ. 

Nhà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ chức để khởi công cho việc xây cất ngôi nhà. 

Lễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch.

Lịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm.

Học: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu là truyền khẩu và bắt chước, làm theo. 

Văn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn xaranai. Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Bon katê diễn ra tại các đền tháp. 

Thiếu nữ Chăm biểu diễn điệu múa truyền thống trong lễ hội Katê. Ảnh Nguyễn Thanh.jpg
Thiếu nữ Chăm biểu diễn điệu múa truyền thống trong lễ hội Katê. Ảnh Nguyễn Thanh

Chơi: Trẻ em thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, chơi trò bịt mắt bắt dê.  

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm