Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày

Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày
Người Tày có nghề dệt thủ công truyền thống. Từ những dụng cụ thô sơ tự tạo, thông qua các thao tác thủ công cùng bàn tay khéo léo, chăm chỉ của phụ nữ Tày đã dệt thành những tấm vải mềm mại, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa.
Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày ảnh 1Để dệt thành tấm vải phải trải qua nhiều thời gian, công đoạn như: Trồng bông, xe bông, quay sợi và dệt. Trong đó, công đoạn xếp chỉ lên khung để dệt đòi hỏi sự tỉ mẩn nhất, cần sự giúp sức của nhiều người.
Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày ảnh 2Những quả bông trắng muốt được kéo thành sợi, sau đó đem luộc 3 tiếng với bột hạt lai, sáp ong, bột gạo và đem phơi khô. Sợi chỉ sau khi đã chắc được kéo thành suốt chỉ nhỏ. Các suốt chỉ được lồng vào khung gỗ để kéo xếp vào khuôn.
Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày ảnh 3Người Tày dùng cột nhà để xếp chỉ vào khuôn dệt. Người ta lựa chọn những ngôi nhà sàn có cột to, nhẵn bóng để làm khuôn. Các sợi chỉ được kéo đều vòng quanh 3 cột nhà. Để dệt được tấm vải dài sẽ phải kéo chỉ quanh cột 11 vòng.
Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày ảnh 4Phần đầu của các sợi chỉ được những người phụ nữ Tày tỉ mẩn gắp từng sợi luồn qua một tấm phên mỏng, có răng đều.
Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày ảnh 5Công việc đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều người, mỗi người một việc, nhưng phụ nữ Tày thường cố gắng quay xong chỉ vòng qua cột nhà trong 1 ngày.
Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày ảnh 6Sau khi quay xong 11 vòng chỉ quanh 3 cột nhà sẽ đến giai đoạn cuốn chỉ vào thanh. Một người sẽ phải cõng các vòng chỉ, cuốn bằng dụng cụ do người dân tự chế.
Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày ảnh 7Những người còn lại giúp sức rải các sợi chỉ thật đều, để người cõng chỉ cuốn thật chắc tay, nối lại các sợi chỉ bị đứt và sửa các sợi xếp lộn xộn.
Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày ảnh 8Các dải chỉ đã cuốn sẽ được nhấc lên xếp vào khung cửi.
Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày ảnh 9Công đoạn cuối là dệt. Phụ nữ Tày tranh thủ thời gian rảnh trong ngày để dệt vải. Một tấm vải dệt mất hơn 1 tháng.
Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày ảnh 10Thành quả sẽ là tấm vải màu trắng tinh, được người Tày dùng cho việc ma chay.
Độc đáo nghề dệt vải của phụ nữ Tày ảnh 11Nếu dùng để may váy, áo hay đệm, chăn, người dân sẽ dùng chàm để nhuộm màu và thêu những hoa văn đầy màu sắc.

Theo baolaocai.vn

Dân tộc Tày Dân tộc Tày

Tên gọi khác: Thổ.

Dân số: 1.626.392 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.

Hoạt động sản xuất: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.

Ăn: Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.

Mặc: Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình).

vna_potal_tuyen_quang_gin_giu_nghe_det_tho_cam_cua_nguoi_tay_o_thuong_nong_5693566.jpg
Phụ nữ Tày biết dệt vải, may quần áo từ khi mới 13-14 tuổi. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

: Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.

Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Phương tiện vận chuyển: Với những thứ nhỏ, gọn người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng mảng để chuyên chở.

Quan hệ xã hội: Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối.

Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Cưới xin: Nam nữ Tày được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.

Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.

Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.

Ma chay: Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

Nhà mới: Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.

Thờ cúng: Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.

Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Lịch: Người Tày theo âm lịch.

Học: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.

Văn nghệ: Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.

Chơi: Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm