Độc đáo món xôi ngũ sắc của đồng bào dân tộc Lự

Xôi ngũ sắc được bà con dân tộc Lự, ở bản Thẳm, xã Bản Hon, huyện Tam Đường xếp từng tầng khi đồ xôi. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN
Xôi ngũ sắc được bà con dân tộc Lự, ở bản Thẳm, xã Bản Hon, huyện Tam Đường xếp từng tầng khi đồ xôi. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN

Lai Châu là tỉnh vùng cao biên giới với 20 dân tộc sinh sống, trong đó có người dân tộc Lự. Người Lự Lai Châu có nhiều món ẩm thực độc đáo, nhưng nổi bật là món xôi ngũ sắc. Món xôi được người dân gìn giữ đến tận nay và trở thành một trong những nét văn hóa đặc sắc, hấp dẫn du khách khi đặt chân đến nơi đây.

Dân tộc Lự là một trong 16 dân tộc ít người ở Việt Nam, với số dân dưới 10.000 người. Hiện nay, dân tộc Lự ở Lai Châu có trên 6.700 người, chiếm 1,49% dân số toàn tỉnh. Người Lự phân bố tập trung ở 2 huyện Tam Đường, Sìn Hồ và sống xen kẽ với người Thái, Khơ Mú ở huyện Than Uyên. Tại huyện Tam Đường, người Lự tập trung chủ yếu ở xã Bản Hon, nơi các giá trị văn hóa truyền thống người Lự vẫn còn lưu giữ được những nét nguyên bản.

Độc đáo món xôi ngũ sắc của đồng bào dân tộc Lự ảnh 1Xôi ngũ sắc được bà con dân tộc Lự, ở bản Thẳm, xã Bản Hon, huyện Tam Đường xếp từng tầng khi đồ xôi. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN

Khu Du lịch Cộng đồng Bản Thẳm, xã Bản Hon, huyện Tam Đường, cách trung tâm thành phố Lai Châu khoảng 15 km về phía Đông Nam là điểm đến vô cùng thú vị cho du khách. Có gần 70 gia đình người Lự sinh sống, Bản Thẳm nằm ẩn mình giữa những vạt rừng xanh thơ mộng, có mây bao phủ, có núi non hùng vĩ và có những vườn hoa luôn ngát hương thơm cùng với những điệu múa truyền thống, những món ăn độc đáo làm say đắm du khách mỗi khi ghé thăm.

Từ lâu, xôi ngũ sắc được biết đến là món ăn truyền thống của người Lự và mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Trong các dịp lễ, Tết của người dân nơi đây, nhất là trong đám cưới, đám giỗ, không thể thiếu món xôi này. Xôi ngũ sắc tượng trưng cho âm dương ngũ hành, cho tình đoàn kết của cộng đồng dân tộc Lự nói riêng và cộng đồng các dân tộc nói chung.

Nguyên liệu dùng để làm ra món xôi ngũ sắc gồm gạo nếp thơm và các loại cây rừng. Công dụng của những lá cây này là để nhuộm màu cho xôi. Thông thường, màu đỏ sẽ được làm từ quả gấc, màu xanh được lấy từ lá gừng hoặc lá dứa, màu vàng làm từ màu của củ nghệ già giã lấy nước, màu tím của xôi lấy từ lá cẩm. Cuối cùng, màu trắng là màu của xôi tự nhiên, không cần thêm bất kì loại lá nào.

Độc đáo món xôi ngũ sắc của đồng bào dân tộc Lự ảnh 2 Phụ nữ Lự, ở bản Thẳm, xã Bản Hon, huyện Tam Đường đồ xôi ngũ sắc để chuẩn bị cho ngày lễ, ngày giỗ. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN

Chị Lò Thị Pầu, dân tộc Lự ở Bản Thẳm cho hay: Mỗi gia đình người Lự trong bản đều trồng quanh nhà các loại cây để làm xôi. Cách làm xôi ngũ sắc cũng khá đơn giản, gần giống với làm món xôi thông thường. Trước khi đem gạo nếp đi nhuộm màu thì phải ngâm gạo trong nước lã từ 6 đến 8 tiếng. Sau đó chia nếp thành 5 phần bằng nhau, mỗi phần tương ứng với một màu. Để đảm bảo màu đẹp, người nấu phải tránh không được để lẫn các loại cây màu với nhau. Tiếp đó là sự cầu kỳ trong khâu nấu, giã lá, củ để lấy nước màu trộn vào gạo nếp. Các loại cây, lá màu phải được nấu ở các nồi khác nhau để tránh bị lẫn màu.

Sau khi nhuộm màu, xôi sẽ được mang đi đồ. Khâu này tùy, thuộc vào mức độ khéo tay và kinh nghiệm nấu của mỗi người mà cho ra một món xôi như ý. Một lưu ý quan trọng để làm thành công món xôi ngũ sắc chính là gạo màu nào dễ phai nhất thì phải cho vào đồ đầu tiên, tiếp đến tới các màu khác. Xôi được nhuộm màu từ lá, củ, khi ăn sẽ rất thơm và mang đặc trưng hương vị của núi rừng.

Theo quan niệm của người Lự, hình ảnh xôi ngũ sắc mang nhiều ý nghĩa khác nhau, nhưng tất cả đều tượng trưng cho những điều may mắn, tốt lành. Tuy là một món ăn bình dân, nhưng với người Lự lại thể hiện những giá trị tinh tế trong quan niệm, ứng xử của con người với tự nhiên; thể hiện tinh thần lao động hăng say để làm nên những hạt gạo, lòng hiếu thảo và ứng xử đẹp của con người. Giống như sự đa dạng trong các mối quan hệ xã hội của con người, xôi ngũ sắc là sự kết hợp đa dạng, tinh tế của nhiều loại cây, củ, quả để tạo thành món xôi thơm, ngon độc đáo.

Độc đáo món xôi ngũ sắc của đồng bào dân tộc Lự ảnh 3Phụ nữ Lự, ở bản Thẳm, xã Bản Hon, huyện Tam Đường đồ xôi ngũ sắc để chuẩn bị cho ngày lễ, ngày giỗ. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN

Đối với đồng bào nơi đây, ngũ sắc là tên gọi của 5 màu chủ đạo gồm: trắng, tím, xanh, vàng và đỏ. Món xôi này thể hiện cho tình yêu son sắt, thủy chung và lòng yêu mẹ, kính cha. Xôi màu đỏ sẽ tượng trưng cho khát vọng sống và những ước mơ về tương lai tươi sáng. Xôi màu tím tượng trưng cho màu của đất đai trù phú. Xôi màu vàng tượng trưng cho sự no ấm và phồn thịnh, thể hiện mong ước cho cuộc sống yên bình của người dân. Xôi màu xanh sẽ tượng trưng cho màu của núi rừng Tây Bắc, của cây cối, rừng rậm và nương rẫy. Xôi màu trắng tượng trưng cho tình yêu trong trắng, thủy chung và tình thương đối với cha mẹ.

Mặc dù cách nấu xôi ngũ sắc không khó nhưng lại đòi hỏi sự tỉ mỉ cao. Vì thế mà loại xôi này cũng được ví như sự tinh tế của người phụ nữ Tây Bắc. Xôi muốn thơm ngon phải chọn nếp tốt, nấu từ nước suối tinh khiết và giữ lửa đều. Có như vậy thì xôi mới mềm dẻo, chín đều và mang một hương vị đặc trưng. Xôi ngũ sắc của người Lự tại Bản Thẳm mang những hương vị riêng biệt bởi nơi đây có những khe núi với mạch nước ngầm sạch, trong lành. Khi đồ xôi xong, người phụ nữ sẽ khéo léo lấy từng tầng xôi để không bị lẫn màu, công đoạn này đòi hỏi phải nhẹ nhàng, tỉ mỉ.

Du khách gần xa khi được thưởng thức xôi ngũ sắc của người Lự sẽ ấn tượng với hương vị thơm ngon, màu sắc bắt mắt của món ăn này. Du khách Hoàng Ngọc Diệp đến từ tỉnh Lạng Sơn hào hứng nói "lên Lai Châu được 2 ngày, khi đặt chân tới Bản Thẳm mình cảm thấy nơi đây thật bình yên, thoải mái và là điểm đến thư giãn tuyệt vời sau những ngày làm việc mệt mỏi. Con người ở đây rất gần gũi, thân thiện, bà con còn giữ được nét bản sắc văn hóa dân tộc. Đến đây, mình được thưởng thức các món ăn, trong đó có xôi ngũ sắc và các điệu múa mà bình thường mình chỉ được xem trên ti vi".

Độc đáo món xôi ngũ sắc của đồng bào dân tộc Lự ảnh 4Xôi ngũ sắc của người Lự, ở bản Thẳm, xã Bản Hon, huyện Tam Đường được biết đến là món ăn truyền thống của đồng bào và mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Ảnh: Đinh Thùy-TTXVN

Anh Tạ Ngọc Lâm, du khách đến từ tỉnh Phú Thọ chia sẻ: Lần đầu tiên tới thăm Bản Thẳm, anh thấy bản này không khí mát mẻ, trong lành, quang cảnh đẹp. Được chứng kiến người dân làm món xôi ngũ sắc anh thấy rất thú vị, lạ lẫm và khi thưởng thức, món xôi này dẻo thơm khác hẳn món xôi mà hàng ngày anh vẫn ăn. Sau khi về Phú Thọ anh sẽ rủ bạn bè và gia đình lên thăm quan bản này để cùng thưởng thức món ăn dân tộc đặc sắc.

Có thể thấy, món xôi ngũ sắc có vai trò quan trọng trong văn hóa ẩm thực của người Lự tại Bản Thẳm. Vì vậy, để lưu giữ lại món xôi truyền thống này cho thế hệ mai sau, những người con gái trong gia đình người Lự từ nhỏ đã được các bà, các mẹ hướng dẫn cách chọn gạo, chọn lá, đồ xôi sao cho thơm, cho dẻo.

Việt Hoàng – Đinh Thùy

(TTXVN)
Dân tộc Lự Dân tộc Lự

Tên tự gọi: Lừ, Thay hoặc Thay Lừ.

Tên gọi khác: Phù Lừ, Nhuồn, Duồn.

Nhóm địa phương: Ở Việt Nam chỉ có nhóm Lự Ðen (Lừ Ðăm) ở xã Bản Hon, huyện Phong Thổ, Sìn Hồ (Lai Châu), phân biệt nhóm Lự Trắng (Lừ Khao) ở Síp Song Păn Na (Trung Quốc).

Dân số: 5.601 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Lự đã có mặt ở khu vực Xam Mứn (Ðiện Biên) ít nhất cũng trước thế kỷ XI - XII. Tại đây họ đã xây thành Xam Mứn (Tam Vạn) và khai khẩn nhiều ruộng đồng. Vào thế kỷ chiến tranh người Lự phải phân tán đi khắp nơi, một bộ phận nhỏ chạy lên sinh sống ở vùng núi Phong Thổ, Sìn Hồ.

Hoạt động sản xuất: Người Lự sáng tạo ra hệ thống mương, phai truyền thống để dẫn thuỷ nhập điền. Ruộng trồng lúa nếp theo kỹ thuật cấy mạ hai lần. Có nơi đã biết dùng phân xanh, rác rưởi và phân chuồng để bón ruộng. Họ làm nương phát, đốt, chọc lỗ tra hạt hoặc cày do tiếp thu từ người Mông. Nghề dệt phát triển. Dệt thổ cẩm với nhiều đường nét hoa văn đẹp. Người Lự có nghề rèn gươm nổi tiếng. Hái lượm, săn bắt, đặc biệt đánh cá ở suối là hoạt động thường xuyên.

Ăn: Người Lự ăn xôi, ưa thích các món chế biến từ cá, trong đó có món nộm chua với thịt cá tươi. Lợn, trâu, bò chỉ mổ ăn khi có lễ tết, không mổ để bán.

Mặc: Nữ mặc áo chàm, xẻ ngực. Váy nữ bằng vải chàm đen, có thêu dệt thành hai phần trang trí, dễ cảm giác như váy có hai tầng ghép lại. Cổ đeo vòng được nối hai đầu bằng chuỗi dây xà tích bằng bạc. Ðầu đội khăn cuốn nghiêng về phía trái, để lộ mặt trước với những đường gấp viền thêu hoa văn bổ dọc. Nhuộm răng đen. Ðeo vòng tay bằng bạc, bằng đồng.

Nam mặc quần áo bằng vải chàm đen, áo cánh kiểu xẻ ngực, cài cúc tết dây vải, có hai túi ở hai vạt áo và một túi ở ngực trái. Quần từ đầu gối trở xuống có thêu hoa văn. Họ đội khăn đen, gấp nếp cuốn nhiều vòng, thích nhuộm răng đen. Ðàn ông thường đeo gươm, không những để tự vệ mà còn là tập quán trang trí.

: Người Lự cư trú ở các huyện Phong Thổ, Sìn Hồ, Ðiện Biên (Lai Châu). Nhà sàn 4 mái, mái kéo dài che làm hiên sàn nơi đặt khung dệt và các dụng cụ làm ra vải. Trong nhà có chăn, đệm, màn, rèm; bếp ở giữa nhà.

Phương tiện vận chuyển: Gùi, trâu kéo, ngựa thồ.

Quan hệ xã hội: Quan hệ láng giềng là chủ đạo. Họ theo tập quán tương trợ giữa các gia đình trong lao động sản xuất, khi làm nhà mới, cưới xin ma chay.

Hai họ - Pu Da (nội) và Ta Nai (ngoại) là quan trọng nhất.

Cưới xin: Người Lự khuyến khích hôn nhân ngược chiều với câu tục ngữ "dao khâu đồng, hôn nhân trở về lối cũ". Em lấy vợ, anh em của vợ thuộc bàng hệ chéo hai, ba đời lại lấy chị em gái của chồng. Không có trường hợp ép duyên. Theo tục ở rể 3 năm sau đó về làm dâu 2 năm thì đôi vợ chồng được phép ra ở riêng để thành đơn vị gia đình hạt nhân sống trong nếp nhà sàn riêng của mình. Có ba bước cưới xin:

+ "Ăn giáp tối": lễ nhập phòng.

+ "Ăn mới": tổ chức ăn uống và nhà trai dâng lễ vật cho nhà gái trong đó phải có một thanh gươm.

+ "Ðón dâu".

Sinh đẻ: Khi đầy tháng nhờ ông máy đem bút vót bằng cây guột và một mảnh vải trắng đĩa mực tàu đến bói và tìm tên cho trẻ nhỏ. Ðặt trứng gà lên bát gạo, ông máy gieo hạt gạo lên trông trứng xem chẵn, lẻ. Nếu ứng đúng như ông xướng thì lấy tên đó đặt cho trẻ và ghi tên vào mảnh vải rồi trao lại cho bố mẹ giữ lấy làm khai sinh. Nữ thường có tên là Kẻo (Ngọc) và nam là Khăm (Vàng)...

Ma chay: Khi có người chết, người trong họ nội đội khăn trắng để tang. Mổ một trâu đen (không trắng) để cúng tiễn hồn về cõi hư vô. Quàn thi thể ở nhà 3 ngày rồi thuê 8 người ngoài họ để khiêng ra rừng ma. Chôn không đắp thành mồ. Những người đi đưa đám trước khi lên nhà phải tắm rửa sạch sẽ. Bà con gần gũi thuộc họ nội của người chết phải kiêng 3 ngày không lao động sản xuất.

Nhà mới: Kiêng không làm lễ lên nhà mới vào giữa trưa. Sau khi quét sạch nhà, mời 4 cụ già ngoài họ đến uống rượu quanh một cái chậu có 4 chén rượu đặt ở giữa nhà. Một chàng trai trẻ đến bên cửa ra vào, ngồi xổm và cất tiếng xin mua nhà, các cụ đang uống rượu đáp: "chủ nhà sắp đến nhận rồi". Vợ chồng chủ nhà đã đứng sẵn ở chân cầu thang. Chồng mang một cái chài trên vai, vợ gánh một bên là kiềng và một bên là chõ xôi; chồng trước, vợ theo sau leo lên cầu thang, đặt đồ vào nhà. Tiếp theo, hai thiếu nữ thắp hai bó đuốc bước lên nhà. Một cô khác ở đầu cầu thang cầm ống nước để dập tắt lửa cháy ở bó đuốc đi đầu. Người thứ hai, cầm bó đuốc vẫn cháy sáng, đưa đến nhóm lửa ở bếp. Ngọn lửa phải giữ cho cháy suốt 3 ngày 3 đêm. Chủ nhà làm lễ thờ tổ tiên bằng cỗ đầu lợn. Dân bản được mời ăn cỗ uống rượu, mọi người vui hát theo điệu sáo đôi.

Thờ cúng: Người Lự thờ cúng tổ tiên ở gian "hóng" trong nhà, mỗi năm một lần vào tháng giêng theo lịch Lự, tương đương với tháng 10 âm lịch; thắp thêm 10 ngọn nến sáp ong ở quanh mâm cỗ. Ông "chủ đầu" (chảu hô) đọc bài cúng. Vào tháng giêng có lễ cúng bản gọi là "kiêng bản" (căm bản) với mâm cỗ 3 yến lợn đều cúng dựng ở đầu bản và cạnh sông, suối. Vào tháng 3 mồng 3 có lễ cúng ở khu "rừng thiêng" (đóng căm) với mâm cỗ 3 yến lợn và cũng như thế, tháng 6 mồng 6 với mâm cỗ 6 yến lợn. Sau khi "chủ đầu" làm lễ xong, cả bản ăn cỗ, uống rượu, chơi kéo co, ném én, hát sáo đôi và kiêng nội bất xuất, ngoại bất nhập từ 3 đến 9 ngày gọi chung là "kiêng bản kiêng mường".

Lễ tết: Cách đương đại 3 thế hệ về trước, khoảng 60-70 năm, người Lự còn thực hiện những nghi lễ Phật giáo gọi là bun như: lễ mừng năm mới (bun pi mày) vào tháng giêng; lễ té nước (bun huất nặm) vào tháng11, tháng 12 và lễ thả ống pháo sáng (bun bẳng phay) vào tháng 2, 3 theo âm lịch Lự.

Lịch: Có lịch riêng - tháng giêng là tháng10 âm lịch.

Học: Người Lự có sử dụng chữ theo mẫu tự Pali. Người ta lấy gai hoặc que sắt nhọn làm bút viết trên lá cọ rừng ghi nhiều loại truyện thần thoại, cổ tích. Cũng có thể vỏ cây guột khô, vót nhọn, chấm mực tàu viết trên miếng vải trắng. Xưa kia, trẻ 7-8 tuổi có tập quán đến học chữ của ông "chẩu hua" (sư).

Văn nghệ: Hát Lự (Khắp Lử) là cách con gái dùng một khăn vải màu đỏ che mặt hát theo tiếng sáo đôi do con trai thổi đệm. Theo lối hát này (ỉn khống). Xưa, vào lúc màn đêm buông xuống, các đôi nam nữ ngồi trên chiếu cói trải giữa sân say sưa hát, thổi sáo cùng nhau đến tận nửa đêm.

Chơi: Người Lự có các trò chơi kéo co, ném én. Nam thanh niên thích múa gươm.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm