Độc đáo Lễ phá Bàu Vàng của đồng bào S’tiêng

Độc đáo Lễ phá Bàu Vàng của đồng bào S’tiêng
Cuối tháng 2 âm lịch hàng năm cũng chính là cao điểm thời tiết nắng nóng khiến cho mực nước ở các sông, suối, bàu xuống thấp. Đây cũng là lúc đồng bào S’tiêng ở Bình Phước đi phá bàu bắt tôm cá. Mỗi đợt phá bàu như thế thu hút hàng ngàn bà con S’tiêng xuống đồng bắt cá cùng với đó là tiếng cồng, chiêng nổi lên rộn ràng cả vùng quê. 
Quang cảnh lễ phá Bàu Vàng. Ảnh: K GỬIH –TTXVN
Quang cảnh lễ phá Bàu Vàng. Ảnh: K GỬIH –TTXVN

Ngày nay, cùng với sự thay đổi của điều kiện thiên nhiên, nhiều địa phương không còn duy trì Lễ hội phá bàu. Theo đó, việc tổ chức Lễ hội phá bàu nhằm duy trì cách đánh bắt cá truyền thống, để đồng bào các dân tộc gần xa có dịp giao lưu, trao đổi, gắn kết tinh thần đoàn kết cộng đồng, giáo dục thế hệ con cháu về bản sắc dân tộc.

Vào những ngày cuối tháng 3/2019 dương lịch, tại xã Quang Minh, huyện Chơn Thành (Bình Phước), Lễ phá Bàu Vàng đã được tái hiện lại. Ngay từ rất sớm, hàng trăm người dân là đồng bào dân tộc S’tiêng và nhiều dân tộc anh em khác từ các xã Quang Minh, Tân Quan, Phước An, Minh Lập, Nha Bích đã cùng nhau tập trung về khu vực Bàu Vàng, thuộc ấp Sóc Ruộng 1, xã Quang Minh để tham gia Lễ hội phá bàu.

Thời điểm bắt đầu Lễ phá bàu là lúc tiếng cồng chiêng vang lên báo hiệu lễ hội chính thức được bắt đầu. Đối với đồng bào dân tộc S’tiêng, cồng chiêng được coi là vật linh thiêng, là bản sắc văn hóa của cộng đồng. Từ bao đời nay, cồng chiêng luôn gắn bó mật thiết trong đời sống sinh hoạt, sản xuất, nghi lễ, lễ hội... Lễ hội phá bàu không thể thiếu được tiếng cồng chiêng để khai hội cũng như âm thanh xuyên suốt lễ.

Nghi thức trong lễ phá Bàu Vàng. Ảnh: K GỬIH –TTXVN
Nghi thức trong lễ phá Bàu Vàng. Ảnh: K GỬIH –TTXVN
Già làng Chang Sray Đơ ở ấp Tranh 3, xã Quang Minh cho biết: Tôi cũng không biết Lễ hội phá bàu có từ bao giờ nữa, chỉ biết rằng từ lúc còn nhỏ đã có Lễ hội này. Trước đây, dù điều kiện kinh tế khó khăn nhưng Lễ hội tổ chức rất vui, đồng bào từ khắp nơi đến: người mang gùi; người cầm dao, rựa; người đem theo cái nôm, cái giỏ đựng cá… Người bắt cá, người vui chơi, người ăn uống, nhưng chỉ xung quanh bàu thôi, rất vui. Truyền thống phá bàu hồi xưa mỗi năm làm một lần, không sót năm nào, dù mưa dù gió cũng phải đi.

Nét độc đáo nhất trong Lễ hội là nghi lễ phá bàu, tức là người dân già, trẻ, gái, trai cùng nhau mang những dụng cụ nơm, đó, vó, chài, lưới, thau, thùng xuống bàu bắt cá. Theo quan niệm của dân tộc S’tiêng, nếu ai bắt được cá to và nhiều cá có nghĩa là sẽ gặp được nhiều điều tốt đẹp, may mắn trong năm. Vì thế, không chỉ đồng bào S’tiêng, rất đông người dân thuộc các tộc anh em cùng chung sống ở các xã Quang Minh, Tân Quang, Phước An, Minh Lập, Nha Bích đã cùng nhau tham gia và xuống bàu bắt cá. Đến với Lễ hội phá bàu, mỗi người có niềm vui và cảm nhận khác nhau. Bà Vương Thị Hoàng Uyên, ấp Sóc Ruộng 1, xã Tân Quan phấn khởi cho biết: “Nghe người ta nói đi phá bàu, nhưng tôi không biết phá bàu như thế nào. Tới đây, tôi thấy lễ rất vui, lâu lắm rồi mới thấy tổ chức lễ. Tôi là người dân tộc Kinh nhưng thấy cảnh này tôi rất thích vì anh em từ các ấp lâu lâu mới hội tụ về Bàu Vàng để tái hiện lễ ông bà xưa đã để lại”.


Em Chu Thị Nghĩa, ấp Bàu Teng, xã Quang Minh chia sẻ: “Đây là lần đầu tiên em được bắt cá dưới bàu, em thấy rất vui vì vừa được bắt cá vừa tham gia lễ hội. Em mong chính quyền các cấp năm nào cũng tổ chức để người dân tham gia, bản sắc độc đáo đồng bào dân tộc thiểu số được nhiều người biết đến hơn”.

Lễ hội được tái hiện không chỉ để bắt cá, mà còn là hoạt động thể hiện tình đoàn kết cộng đồng người dân sâu sắc, là dịp để người dân cùng nhau trao đổi kinh nghiệm trong làm ăn, sản xuất và giao lưu tình cảm gia đình, bạn bè tình yêu đôi lứa. Dù năm nay đã 67 tuổi, nhưng khi nghe nói đến Lễ hội phá bàu tổ chức tại Bàu Vàng, bà Thị Nhương ở ấp Xạc Lây, xã Tân Quan vẫn tỏ ra khá hào hứng. Cùng với người bạn già của mình và các vật dụng như: gùi, nôm, rỗ… để xuống bàu bắt cá, bà Thị Nhương, ấp Xạc Lây cho biết: “Bữa nay, khách khứa xa gần cũng đến phá bàu thấy đông vui nên tôi cũng tham gia. Lần này thấy cũng vui vì có nhiều trẻ con tham gia, chứ hồi xưa đa số là người lớn tuổi tham gia phá bàu thôi”.

Ngoài tham gia bắt cá, được thưởng thức các giai điệu cồng chiêng, người dân, du khách còn được uống rượu cần, thưởng thức những món ăn truyền thống của đồng bào S’tiêng. Để lễ hội thực sự là ngày hội của toàn dân, năm nay, xã Quang Minh còn tổ chức thêm nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao phục vụ người dân và du khách gần xa. Ông Vũ Văn Toàn, Phó Chủ tịch UBND xã Quang Minh cho biết: “Đây là lễ hội truyền thống của đồng bào S’tiêng đã có từ lâu đời. Chính vì vậy, Đảng ủy, chính quyền địa phương muốn duy trì Lễ hội này để thế hệ sau biết được, hiểu được lễ hội của cha ông ngày xưa. Qua một năm lao động vất vả, việc tổ chức Lễ hội là để tạo cho bà con, thanh thiếu niên vui chơi tại Bàu Vàng. Trước đây, Lễ phá bàu chỉ có làm lễ và bắt cá thôi, bây giờ tổ chức thêm các hoạt động văn nghệ, thể thao để đồng bào các địa phương giao lưu, vui chơi, tập luyện thể thao”.

Có thể nói, nét đặc sắc từ Lễ hội phá Bàu Vàng không chỉ có giá trị về mặt tinh thần, phát huy được nét đẹp văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc S’tiêng mà còn góp phần xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới tại địa phương.

K GỬIH
(TTXVN)
Dân tộc Xtiêng Dân tộc Xtiêng

Tên gọi khác: Xa Ðiêng hay Xa Chiêng.

Nhóm địa phương: Bù Lơ, Bù Ðek (Bù Ðêh), Bù Biêk.

Dân số: 85.436 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á) tương đối gần gũi với tiếng Mạ, Mnông, Chơ Ro. Chữ viết hình thành từ trước năm 1975, theo chữ cái La-tinh.

Lịch sử: Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.

Hoạt động sản xuất: Nguồn lương thực chính là lúa gạo, khoảng 80% lúa gạo do rẫy cung cấp. Nhóm Bù Lơ ở cao, sâu hơn hoàn toàn làm rẫy. Nhóm Bù Ðeh (Bù Ðêk) ở vùng thấp làm ruộng nước từ khoảng 100 năm, như cách thức canh tác của người Việt sở tại. Lúa rẫy có các giống khác nhau, được trồng theo lối "phát-đốt-chọc-trỉa", kết quả mùa màng phụ thuộc lớn vào thiên nhiên và việc bảo về trước sự phá phách của chim muông. Công cụ làm rẫy chủ yếu gồm rìu và dao xà gạc để khai phá rừng, sau khi đốt thì dùng cây cào tre có 5 răng để dọn rồi đốt lại, khi trỉa dùng gậy nhọn (mỗi tay cầm một chiếc) để chọc lỗ, đồng thời gieo hạt giống theo, làm cỏ bằng loại cuốc con (về sau thay thế bằng cái xà - bát người Việt sử dụng), dùng tay tuốt lúa. Hái lượm, săn bắt và kiếm cá đưa lại nguồn lợi quan trọng thiết thực. Gia súc phổ biến gồm: trâu, bò, lợn, chó, một số hộ nuôi voi; gia cầm chủ yếu là gà. Có nghề dệt vải và đan lát. Việc mua bán thường dùng vật đổi vật (nay dùng tiền) có quan hệ hàng hoá với người Việt, Khơme, Mnông, Mạ và cả với bên Campuchia.

Ăn: Người Xtiêng ăn cơm tẻ, cơm nếp. Thực phẩm thường ngày của họ chủ yếu là những thứ kiếm được trong rừng và sông suối (nay có mua ở chợ hay của thương nhân). Thức uống truyền thống nước lã, rượu cần. Ðồ đựng cơm canh, nước đều là vỏ bầu chế tác có hình dạng thích hợp. Họ hút thuốc lá bằng tẩu (nay ít thấy).

: Người Xtiêng phân bố tập trung tại tỉnh Bình Phước, một số ở Tây Ninh và Ðồng Nai. Vùng cao ở nhà trệt, mái trùm gần xuống mặt đất và có nơi uốn tròn ở hai đầu hồi và ở một mặt bên. Vùng thấp thường làm nhà sàn khá khang trang, vách dựng nghiêng phía trên ra ngoài. Theo nếp xưa, mỗi làng chỉ gồm một vài ngôi nhà dài, nay hình thức nhà ngắn của từng hộ đang phát triển.

Mặc: Thông thường, đàn ông đóng khố, ở trần, đàn bà mặc áo, quấn váy. Trước kia, phụ nữ nghèo ở nhiều nơi cũng dùng khố. Họ ưa đeo nhiều trang sức, thường dùng các loại vòng kim loại và chuỗi cườm, thậm chí một cánh tay đeo tới trên 20 chiếc vòng nhôm nay bạc, có cả loại vòng ống quấn từ sợi dây đồng dài ôm quanh ống chân, ống tay. Loại hoa tai lớn bằng ngà voi được ưa chuộng. Nay nam giới mặc như người Việt, nữ hay dùng áo cánh, sơ mi, ở vùng gần người Khơ Me cũng thường gặp phụ nữ Xtiêng quấn váy Khơ Me.

Phương tiện vận chuyển: Các loại gùi rất thông dụng, cách gùi như ở các tộc Thượng khác. Nhóm gần người Việt và Khơ Me, các loại xe gỗ 2 bánh dùng đôi bò kéo từ lâu đã trở thành một phương tiện vận chuyển phổ biến.

Quan hệ xã hội: Mỗi cặp vợ chồng và con cái là một "bếp" (nak). Nhiều bếp hợp thành một nhà (yau). Mỗi làng xưa gồm một vài nhà, càng về sau số nhà càng tăng do việc tách hộ ở riêng. Mỗi người không chỉ thuộc về một "bếp", một nhà, một làng, mà còn là thành viên của một dòng họ nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng khác nữa. Về tổ chức xã hội truyền thống, làng là đơn vị bao trùm và nổi bật: trong tự bảo quản ở thì ông "già làng" và các bô lão có uy tín cao khác đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Xưa kia, ngoài một số ít người giàu có và đa số thuộc lớp nghèo, xã hội Xtiêng đã có những "nô lệ gia đình" do phải ở đợ, hoặc bị mua về...

Cưới xin: Thông thường nếu nhà trai có đủ của cải sính lễ, cô dâu về ở đằng chồng, nhưng thực tế phần đông phải ở rể do chưa có đủ đồ dẫn cưới theo yêu cầu của nhà gái (ché quý, chiêng cồng, trâu...); riêng ở vùng Bình Long, chàng rể luôn phải về ở nhà vợ. Tập tục hôn nhân giữa các nơi, các nhóm có những điểm khác nhau, chẳng hạn: Nhóm Bù Ðek cho phép con trai cô với con gái cậu cũng như con gái cậu với con gái cô lấy nhau, nhưng ở nhóm Bù Lơ chỉ con trai cô được lấy con gái cậu với điều kiện cậu là anh của cô, cũng chỉ được chấp nhận một lần trong mỗi gia đình.

Sinh đẻ: Phụ nữ kiêng cữ cẩn thận ngay từ thời kỳ mang thai. Việc sinh nở xưa kia, phụ nữ tự xoay xở ngoài rừng một mình. Nay nhiều người ở vùng có tập quán dựng kho thóc trong nhà vẫn ra đẻ ở ngôi nhà nhỏ dựng gần bên nhà ở, bởi họ cho rằng nếu đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến "thần lúa", đẻ xong sẽ phải cúng một con lợn cho "thần lúa".

Trong ngày lễ mừng lúa mới, người Xtiêng thường tổ chức đâm trâu. Khi giết một trâu, họ chỉ dựng đoạn thây cây gạo làm cột. Nếu đâm nhiều trâu, lần đầu gia chủ làm loại cột đơn giản gâng srung, những lần sau họ dựng cột gâng rai với nhiều hoa văn trang trí. Ðây là phần ngọn của cây cột đâm trâu gâng rai.

Ma chay: Quan tài gỗ độc mộc đẽo từ cây rừng. Nếu chết bình thường thì họ chôn trong bãi mộ của làng. Trong quan tài, cùng với tử thi, có bỏ một ít gạo, thuốc lá... Những ché, nồi, dụng cụ... "chia" cho người chết đều để trên và quanh mộ. Người Xtiêng không có tục thăm viếng mồ mả. Có người mới chết, cả làng không gõ cồng chiêng và vui nhộn trong khoảng 10 ngày. Những trường hợp chết bất bình thường phải cúng quải tốn kém hơn, kiêng cữ nhiều hơn, lễ thức làm ngoài khu gia cư của làng và không được chôn vào bãi mộ của làng.

Thờ cúng: Người ta tin con người, con vật, cây cối cũng như muôn vật đều có siêu nhiên, tựa như "hồn". "Thần linh" cũng có rất nhiều: thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa... Thần lúa được hình dung là người phụ nữ trẻ và đẹp. Trong các lễ cúng, các vị thần hoặc các siêu nhiên nói chung được nhắc đến để cầu xin, hay tạ ơn, hay thông báo điều gì đó. Vật hiến tế là rượu, gà, lợn, trâu, bò, số lượng càng nhiều và con vật càng lớn chứng tỏ lễ cúng càng to, thần linh càng quyền thế, quan trọng.

Lễ tết: Có rất nhiều lễ cúng lớn nhỏ khác nhau trong đời sống của người Xtiêng. Trong đó, lễ hội đâm trâu là lớn nhất, thường được tổ chức mừng được mùa lớn (gia đình thu hoạch lúa từ 100 gùi cỡ to trở lên - loại gùi có tên Sah cach), mừng chiến thắng kẻ thù, mừng làm ăn phát đạt, mừng con cái lớn khôn... Cùng với hiến sinh trâu còn thường có cả bò, lợn. Nếu hiến sinh một trâu, cột lễ để buộc trâu làm đơn giản, nhưng từ 2 trâu trở lên thì cột lễ trang trí đẹp, làm công phu. Tết Xtiêng được gọi là "lễ cúng rơm", sau khi tuốt lúa rẫy xong, trước khi đốt rẫy vụ sau: lễ thức ngày tết có nội dung tạ ơn thần lúa sau một mùa.

Văn nghệ: Người Xtiêng rất yêu âm nhạc. Nhạc cụ quan trọng nhất, đồng thời là một trong số gia tài quý ở xã hội truyền thống, là cồng và chiêng; nhóm Bù Lơ chủ yếu dùng chiêng, mỗi bộ 6 chiếc, nhóm Bù Ðek (Bù Ðêk) chủ yếu dùng cồng, mỗi bộ 5 chiếc. Riêng trong đám ma, chỉ dùng 3 cồng hoặc 3 chiêng. Ngoài ra, còn có tù và, trống, khèn bầu, các loại đàn. Người Xtiêng cũng có kho tàng truyện cổ khá phong phú, có những điệu hát của mình. Tuy nhiên, đến nay, tương tự như nhiều nơi khác, ngay cả cồng, chiêng cũng chỉ còn rất ít so với xưa kia.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm