Di sản cồng chiêng – niềm tự hào của đồng bào dân tộc S’tiêng Bình Phước

Màn biểu diễn cồng chiêng trong lễ hội mừng lúa mới của đồng bào S’tiêng ở Bình Phước. Ảnh: K 'GỬIH-TTXVN
Màn biểu diễn cồng chiêng trong lễ hội mừng lúa mới của đồng bào S’tiêng ở Bình Phước. Ảnh: K 'GỬIH-TTXVN

Cồng chiêng được xem là “di sản” văn hóa độc đáo có sức hút mạnh mẽ của đồng bào dân tộc S’tiêng. Cộng đồng dân tộc S’tiêng Bình Phước xem cồng chiêng là ngôn ngữ giao tiếp hàng đầu giữa con người, thần linh và các thế lực siêu nhiên. Mỗi chiếc cồng chiêng của từng gia đình biểu hiện cho tài sản, quyền lực và sự an toàn.

Di sản cồng chiêng – niềm tự hào của đồng bào dân tộc S’tiêng Bình Phước ảnh 1Màn biểu diễn cồng chiêng trong lễ hội mừng lúa mới của đồng bào S’tiêng ở Bình Phước. Ảnh: K 'GỬIH-TTXVN

Di sản cồng chiêng của đồng bào S’tiêng

Ông Điểu Huyền Lít, người dân tộc S’tiêng ở thôn 7, xã Long Giang, thị xã Phước Long là người không chỉ “giữ hồn” cho di sản cồng chiêng của đồng bào S’tiêng Bình Phước mà còn là người cất công sưu tầm nhiều bộ cồng chiêng quý của đồng bào.

Khi một số thành viên trong gia đình mỗi người mang một nhạc cụ cồng hoặc chiêng lên tay cũng là lúc những giai điệu, âm hưởng của núi rừng vang lên. Âm thanh trầm, bổng ngân vang nhịp nhàng theo từng bước chân vòng quanh của những nghệ nhân đồng bào S’tiêng tạo thành hợp khúc của không gian núi rừng, nương rẫy.

“Âm thanh của cồng chiêng vang lên chính là âm thanh của lễ hội, của văn hóa tâm linh của đồng bào S’tiêng. Đây là nét văn hóa riêng, đồng thời cũng là niềm tự hào của đồng bào dân tộc S’tiêng Bình Phước”, ông Điểu Huyền Lít chia sẻ.

Theo thống kê, trên địa bàn tỉnh Bình Phước có 40 dân tộc thiểu số với khoảng 200.000 người, chiếm 20% dân số toàn tỉnh; trong đó người dân tộc S’tiêng có khoảng 100.000 người. Đồng bào S’tiêng Bình Phước được xem là người dân tộc bản địa, sống lâu đời tại các huyện Bù Đăng, Bù Đốp, Hớn Quản, thị xã Bình Long, Phước Long.

Trong đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào S’tiêng, nghệ thuật trình diễn dân gian được xem là món ăn tinh thần không thể thiếu. Đối với nghệ thuật cồng chiêng, đây là một trong những loại hình nghệ thuật tiêu biểu, có giá trị tinh thần rất cao của người S’tiêng. “Cồng chiêng của Bình Phước là một bộ phận trong không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. So với những loại hình nghệ thuật khác, cồng chiêng có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của người S’tiêng ở Bình Phước”, nhà nghiên cứu văn hóa Đinh Nho Dương – Bảo tàng Bình Phước cho biết.

Theo nhà nghiên cứu Đinh Nho Dương, tất cả các lễ hội, các hoạt động giao lưu văn hóa của cộng đồng dân cư S’tiêng đều có sự tham gia biểu diễn của cồng chiêng. Từ những lễ hội quy mô nhỏ mang tính gia đình, đến những lễ hội của sóc, ấp đều không thể thiếu cồng chiêng.

“Không như các loại hình nghệ thuật khác, biểu diễn cồng chiêng còn mang ý nghĩa và nghi lễ tâm linh. Đối với cư dân S’tiêng, cồng chiêng vừa là tài sản quý nhưng cũng đồng thời là vật thiêng trong nhà. Muốn đưa cồng chiêng ra biểu diễn thì trước đó gia chủ phải làm lễ cúng”, ông Đinh Nho Dương, cho biết.

Bà Trương Thị Mỹ Huệ (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Phước) cho biết, cồng chiêng là di sản văn hóa tồn tại từ nền văn hóa Đông Sơn cách nay 3.500 – 4.000 năm. Văn hóa cồng chiêng là loại hình nghệ thuật gắn với lịch sử văn hóa của các dân tộc thiểu số sống ở Nam Trường Sơn – Tây Nguyên nói chung và Bình Phước nói riêng.

“Cồng chiêng được xem là ngôn ngữ giao tiếp hàng đầu giữa con người, thần linh và các thế lực siêu nhiên. Những chiếc cồng chiêng của mỗi gia đình biểu hiện cho tài sản, quyền lực và sự an toàn”, bà Huệ cho biết.

Theo bà Trương Thị Mỹ Huệ, trải qua thời gian, cồng chiêng đã trở thành nét văn hóa đặc trưng, đầy sức quyến rũ và hấp dẫn của người S’tiêng Bình Phước. Cồng chiêng S’tiêng đặc biệt không chỉ ở sự độc đáo về các bè trầm bổng mà còn là cuộc sống của người S’tiêng Bình Phước. Nghe cồng chiêng là thấy được cả không gian săn bắn, không gian làm rẫy, không gian lễ hội của đồng bào S’tiêng.

Theo các nhà nghiên cứu, cồng chiêng là loại nhạc khí bằng đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng không có núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ, đường kính từ 20 – 60cm, loại cực đại có thể lên tới 120 cm. Cồng chiêng có thể dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ 2 – 13 chiếc, thậm chí có nơi 18 – 20 chiếc. Cồng chiêng có thể được gõ bằng dùi, đấm bằng tay. Người S’tiêng Bình Phước chủ yếu đấm bằng tay và áp dụng kỹ thuật chặn tiếng bằng tay trái hoặc tạo giai điệu trên một chiếc cồng, chiêng.

Bảo tồn giá trị văn hóa cồng chiêng của người S’tiêng

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Phước cho biết, trong nhiều năm qua, những người làm văn hóa ở Bình Phước đã tiếp nhận khuyến nghị từ các nhà khoa học quan tâm và khuyến khích các hoạt động văn hóa có sử dụng cồng chiêng; đồng thời, duy trì tổ chức các liên hoan cồng chiêng thường niên ở cấp xã, huyện và tỉnh. Qua đó, huy động các đội cồng chiêng, các nghệ nhân người S’tiêng tham gia nhằm truyền cảm hứng và góp phần bảo tồn giá trị văn hóa phi vật thể cồng chiêng. Tại các trường dân tộc nội trú cũng được khuyến khích đưa môn cồng chiêng vào truyền dạy cho các bậc học sinh người đồng bào dân tộc S’tiêng.

Bà Trương Thị Mỹ Huệ cho biết, nhờ đó đến nay, hầu hết các thôn, sóc người S’tiêng trên địa bàn Bình Phước đều có các đội cồng chiêng phục vụ đồng bào sinh hoạt cộng đồng, trong dịp hội hè. “Vào ngày lễ, Tết, hình ảnh quen thuộc bên ngọn lửa thiêng, những vòng người say sưa nhún nhảy theo tiếng cồng chiêng vang dội. Âm thanh cồng chiêng còn là chất men lôi cuốn gái trai vào những điệu múa hào hứng của cả cộng đồng trong những ngày lễ hội. Đó là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của đồng bào S’tiêng.

Ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Phước, Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu về văn hóa dân tộc S’tiêng Bình Phước cho rằng: Đồng bào S’tiêng quần cư khá lâu đời và tạo dựng cho riêng mình một bản sắc văn hóa đặc trưng. Nổi bật là các loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo, phong phú. Các loại hình nghệ thuật này không chỉ mang bản sắc riêng, phục vụ cộng đồng cư dân mà còn có sự giao thoa văn hóa với các cộng đồng dân tộc khác, làm cho nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật cồng chiêng của đồng bào S’tiêng phong phú hơn.

"Để bảo tồn và phát huy nét đẹp, truyền thống của văn hóa S’tiêng nói chung và nghệ thuật cồng chiêng đồng bào S’tiêng nói riêng, cần có sự quan tâm đúng mức, ưu tiên các nguồn lực cho công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa; có chính sách hỗ trợ để cộng đồng có môi trường và không gian văn hóa rộng mở để bảo tồn di sản", ông Lê Văn Quang nhận định.

Tại Bình Phước, địa danh sóc Bom Bo đã đi vào lịch sử bởi tinh thần cách mạng quật cường của đồng bào S’tiêng. Nhịp chày giã gạo của đồng bào S’tiêng cùng với âm thanh trầm bổng của tiếng nhạc từ cồng chiêng đã đi vào lòng người qua những áng thơ ca.

Sóc Bom Bo (xã Bình Minh, huyện Bù Đăng) là nơi đồng bào S’tiêng quần cư, với lối sinh hoạt, phong tục, tập quán riêng. Đồng bào lấy sản xuất nông, lâm nghiệp làm nghề chính để mưu sinh và sử dụng sắc thái văn hóa truyền thống, qua làn điệu dân ca, điệu nhạc cồng chiêng làm nền tảng sinh hoạt đời sống văn hóa tinh thần.

Năm 2009, tỉnh Bình Phước đã xây dựng khu bảo tồn văn hóa S’tiêng – Sóc Bom Bo với các công trình kiến trúc mang đậm nét văn hóa của dân tộc S’tiêng.

Bên bếp lửa bập bùng, những tiếng hát, điệu nhảy vòng quanh hòa vào những nhịp, thanh âm của cồng chiêng đã tạo nên một không gian riêng của núi rừng, của lễ hội, nơi cộng đồng người dân tộc S’tiêng sinh sống. “Cắc cum cụp cum, cum cụp cum. Đuốc lồ ô bập bùng lên ánh lửa. Sóc Bom Bo rộn rã tiếng chày khuya… Cách mạng cần gạo nhiều để đánh Mỹ. Sóc Bom Bo sẵn có cối chày đây. Người Bom Bo sẵn có đôi bàn tay. Với tình yêu nước và thù giặc ngày ngày”.

Sỹ Tuyên

(TTXVN)
Dân tộc Xtiêng Dân tộc Xtiêng

Tên gọi khác: Xa Ðiêng hay Xa Chiêng.

Nhóm địa phương: Bù Lơ, Bù Ðek (Bù Ðêh), Bù Biêk.

Dân số: 85.436 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á) tương đối gần gũi với tiếng Mạ, Mnông, Chơ Ro. Chữ viết hình thành từ trước năm 1975, theo chữ cái La-tinh.

Lịch sử: Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.

Hoạt động sản xuất: Nguồn lương thực chính là lúa gạo, khoảng 80% lúa gạo do rẫy cung cấp. Nhóm Bù Lơ ở cao, sâu hơn hoàn toàn làm rẫy. Nhóm Bù Ðeh (Bù Ðêk) ở vùng thấp làm ruộng nước từ khoảng 100 năm, như cách thức canh tác của người Việt sở tại. Lúa rẫy có các giống khác nhau, được trồng theo lối "phát-đốt-chọc-trỉa", kết quả mùa màng phụ thuộc lớn vào thiên nhiên và việc bảo về trước sự phá phách của chim muông. Công cụ làm rẫy chủ yếu gồm rìu và dao xà gạc để khai phá rừng, sau khi đốt thì dùng cây cào tre có 5 răng để dọn rồi đốt lại, khi trỉa dùng gậy nhọn (mỗi tay cầm một chiếc) để chọc lỗ, đồng thời gieo hạt giống theo, làm cỏ bằng loại cuốc con (về sau thay thế bằng cái xà - bát người Việt sử dụng), dùng tay tuốt lúa. Hái lượm, săn bắt và kiếm cá đưa lại nguồn lợi quan trọng thiết thực. Gia súc phổ biến gồm: trâu, bò, lợn, chó, một số hộ nuôi voi; gia cầm chủ yếu là gà. Có nghề dệt vải và đan lát. Việc mua bán thường dùng vật đổi vật (nay dùng tiền) có quan hệ hàng hoá với người Việt, Khơme, Mnông, Mạ và cả với bên Campuchia.

Ăn: Người Xtiêng ăn cơm tẻ, cơm nếp. Thực phẩm thường ngày của họ chủ yếu là những thứ kiếm được trong rừng và sông suối (nay có mua ở chợ hay của thương nhân). Thức uống truyền thống nước lã, rượu cần. Ðồ đựng cơm canh, nước đều là vỏ bầu chế tác có hình dạng thích hợp. Họ hút thuốc lá bằng tẩu (nay ít thấy).

: Người Xtiêng phân bố tập trung tại tỉnh Bình Phước, một số ở Tây Ninh và Ðồng Nai. Vùng cao ở nhà trệt, mái trùm gần xuống mặt đất và có nơi uốn tròn ở hai đầu hồi và ở một mặt bên. Vùng thấp thường làm nhà sàn khá khang trang, vách dựng nghiêng phía trên ra ngoài. Theo nếp xưa, mỗi làng chỉ gồm một vài ngôi nhà dài, nay hình thức nhà ngắn của từng hộ đang phát triển.

Mặc: Thông thường, đàn ông đóng khố, ở trần, đàn bà mặc áo, quấn váy. Trước kia, phụ nữ nghèo ở nhiều nơi cũng dùng khố. Họ ưa đeo nhiều trang sức, thường dùng các loại vòng kim loại và chuỗi cườm, thậm chí một cánh tay đeo tới trên 20 chiếc vòng nhôm nay bạc, có cả loại vòng ống quấn từ sợi dây đồng dài ôm quanh ống chân, ống tay. Loại hoa tai lớn bằng ngà voi được ưa chuộng. Nay nam giới mặc như người Việt, nữ hay dùng áo cánh, sơ mi, ở vùng gần người Khơ Me cũng thường gặp phụ nữ Xtiêng quấn váy Khơ Me.

Phương tiện vận chuyển: Các loại gùi rất thông dụng, cách gùi như ở các tộc Thượng khác. Nhóm gần người Việt và Khơ Me, các loại xe gỗ 2 bánh dùng đôi bò kéo từ lâu đã trở thành một phương tiện vận chuyển phổ biến.

Quan hệ xã hội: Mỗi cặp vợ chồng và con cái là một "bếp" (nak). Nhiều bếp hợp thành một nhà (yau). Mỗi làng xưa gồm một vài nhà, càng về sau số nhà càng tăng do việc tách hộ ở riêng. Mỗi người không chỉ thuộc về một "bếp", một nhà, một làng, mà còn là thành viên của một dòng họ nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng khác nữa. Về tổ chức xã hội truyền thống, làng là đơn vị bao trùm và nổi bật: trong tự bảo quản ở thì ông "già làng" và các bô lão có uy tín cao khác đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Xưa kia, ngoài một số ít người giàu có và đa số thuộc lớp nghèo, xã hội Xtiêng đã có những "nô lệ gia đình" do phải ở đợ, hoặc bị mua về...

Cưới xin: Thông thường nếu nhà trai có đủ của cải sính lễ, cô dâu về ở đằng chồng, nhưng thực tế phần đông phải ở rể do chưa có đủ đồ dẫn cưới theo yêu cầu của nhà gái (ché quý, chiêng cồng, trâu...); riêng ở vùng Bình Long, chàng rể luôn phải về ở nhà vợ. Tập tục hôn nhân giữa các nơi, các nhóm có những điểm khác nhau, chẳng hạn: Nhóm Bù Ðek cho phép con trai cô với con gái cậu cũng như con gái cậu với con gái cô lấy nhau, nhưng ở nhóm Bù Lơ chỉ con trai cô được lấy con gái cậu với điều kiện cậu là anh của cô, cũng chỉ được chấp nhận một lần trong mỗi gia đình.

Sinh đẻ: Phụ nữ kiêng cữ cẩn thận ngay từ thời kỳ mang thai. Việc sinh nở xưa kia, phụ nữ tự xoay xở ngoài rừng một mình. Nay nhiều người ở vùng có tập quán dựng kho thóc trong nhà vẫn ra đẻ ở ngôi nhà nhỏ dựng gần bên nhà ở, bởi họ cho rằng nếu đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến "thần lúa", đẻ xong sẽ phải cúng một con lợn cho "thần lúa".

Trong ngày lễ mừng lúa mới, người Xtiêng thường tổ chức đâm trâu. Khi giết một trâu, họ chỉ dựng đoạn thây cây gạo làm cột. Nếu đâm nhiều trâu, lần đầu gia chủ làm loại cột đơn giản gâng srung, những lần sau họ dựng cột gâng rai với nhiều hoa văn trang trí. Ðây là phần ngọn của cây cột đâm trâu gâng rai.

Ma chay: Quan tài gỗ độc mộc đẽo từ cây rừng. Nếu chết bình thường thì họ chôn trong bãi mộ của làng. Trong quan tài, cùng với tử thi, có bỏ một ít gạo, thuốc lá... Những ché, nồi, dụng cụ... "chia" cho người chết đều để trên và quanh mộ. Người Xtiêng không có tục thăm viếng mồ mả. Có người mới chết, cả làng không gõ cồng chiêng và vui nhộn trong khoảng 10 ngày. Những trường hợp chết bất bình thường phải cúng quải tốn kém hơn, kiêng cữ nhiều hơn, lễ thức làm ngoài khu gia cư của làng và không được chôn vào bãi mộ của làng.

Thờ cúng: Người ta tin con người, con vật, cây cối cũng như muôn vật đều có siêu nhiên, tựa như "hồn". "Thần linh" cũng có rất nhiều: thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa... Thần lúa được hình dung là người phụ nữ trẻ và đẹp. Trong các lễ cúng, các vị thần hoặc các siêu nhiên nói chung được nhắc đến để cầu xin, hay tạ ơn, hay thông báo điều gì đó. Vật hiến tế là rượu, gà, lợn, trâu, bò, số lượng càng nhiều và con vật càng lớn chứng tỏ lễ cúng càng to, thần linh càng quyền thế, quan trọng.

Lễ tết: Có rất nhiều lễ cúng lớn nhỏ khác nhau trong đời sống của người Xtiêng. Trong đó, lễ hội đâm trâu là lớn nhất, thường được tổ chức mừng được mùa lớn (gia đình thu hoạch lúa từ 100 gùi cỡ to trở lên - loại gùi có tên Sah cach), mừng chiến thắng kẻ thù, mừng làm ăn phát đạt, mừng con cái lớn khôn... Cùng với hiến sinh trâu còn thường có cả bò, lợn. Nếu hiến sinh một trâu, cột lễ để buộc trâu làm đơn giản, nhưng từ 2 trâu trở lên thì cột lễ trang trí đẹp, làm công phu. Tết Xtiêng được gọi là "lễ cúng rơm", sau khi tuốt lúa rẫy xong, trước khi đốt rẫy vụ sau: lễ thức ngày tết có nội dung tạ ơn thần lúa sau một mùa.

Văn nghệ: Người Xtiêng rất yêu âm nhạc. Nhạc cụ quan trọng nhất, đồng thời là một trong số gia tài quý ở xã hội truyền thống, là cồng và chiêng; nhóm Bù Lơ chủ yếu dùng chiêng, mỗi bộ 6 chiếc, nhóm Bù Ðek (Bù Ðêk) chủ yếu dùng cồng, mỗi bộ 5 chiếc. Riêng trong đám ma, chỉ dùng 3 cồng hoặc 3 chiêng. Ngoài ra, còn có tù và, trống, khèn bầu, các loại đàn. Người Xtiêng cũng có kho tàng truyện cổ khá phong phú, có những điệu hát của mình. Tuy nhiên, đến nay, tương tự như nhiều nơi khác, ngay cả cồng, chiêng cũng chỉ còn rất ít so với xưa kia.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm