Đắk Nông: Ấn tượng Hội xuân Liêng Nung

Tái hiện lễ N'jun Jong (kết nghĩa giữa hai bon) của người Mạ. Ảnh: Minh Phương
Tái hiện lễ N'jun Jong (kết nghĩa giữa hai bon) của người Mạ. Ảnh: Minh Phương

Tối 31/1, tại Khu làng nghề truyền thống bon N'jriêng, xã Đắk Nia, thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông diễn ra Lễ khai mạc Hội xuân Liêng Nung 2023. Hội xuân do UBND TP. Gia Nghĩa tổ chức với sự tham gia của đông đảo bà con nhân dân, du khách gần xa.

Đắk Nông: Ấn tượng Hội xuân Liêng Nung ảnh 1Hội xuân Liêng Nung được coi là hội xuân lớn nhất tỉnh Đắk Nông hiện nay. Ảnh: Minh Phương

Với chủ đề “Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá”, đêm khai mạc đã tái hiện lại Lễ kết nghĩa (N'jun jong) của đồng bào Mạ, một dân tộc bản địa với nhiều nét văn hóa độc đáo. Tất cả các nghi thức đều được phục dựng nguyên bản và theo hình thức sân khấu hóa.

Đắk Nông: Ấn tượng Hội xuân Liêng Nung ảnh 2Nghi lễ cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Ảnh: Minh Phương

Lễ “N'jun Jong” là một trong những nghi lễ quan trọng của người Mạ thường được tổ chức 2 năm một lần nhằm thắt chặt tình đoàn kết giữa các bon kết nghĩa. Nghi lễ cũng nhằm cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu; cầu mong thần linh che chở cho người dân các bon kết nghĩa luôn khỏe, giàu mạnh…

Đắk Nông: Ấn tượng Hội xuân Liêng Nung ảnh 3Tái hiện lễ N'jun Jong (kết nghĩa giữa hai bon) của người Mạ. Ảnh: Minh Phương

Hội xuân Liêng Nung 2023 quy tụ hơn 200 vận động viên, nghệ tham dự. Bên cạnh đó, nhiều phần thi, trò chơi dân gian như bịt mắt bắt heo, giã gạo nấu cơm nhanh, thi ẩm thực, đẩy gậy, vật tay… cũng thu hút đông đảo bà con tham gia.

Đắk Nông: Ấn tượng Hội xuân Liêng Nung ảnh 4

Hội xuân Liêng Nung đã góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa độc đáo của các dân tộc thiểu số tại chỗ . Ảnh: Minh Phương

Đây có thể được coi là hội xuân lớn nhất của tỉnh Đắk Nông hiện nay, việc tổ chức định kỳ hàng năm được đánh giá đã góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc bản địa trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.

Đắk Nông: Ấn tượng Hội xuân Liêng Nung ảnh 5

Người Mạ thi dệt thổ cẩm tại hội xuân. Ảnh: Minh Phương

Đắk Nông: Ấn tượng Hội xuân Liêng Nung ảnh 6Một phần thi thu hút sự tham gia của nhiều vận động viên. Ảnh: Minh Phương
Đắk Nông: Ấn tượng Hội xuân Liêng Nung ảnh 7Thi giã gạo nấu cơm nhanh tại hội xuân. Ảnh: Minh Phương
Đắk Nông: Ấn tượng Hội xuân Liêng Nung ảnh 8

Chấm điểm phần thi ẩm thực với các món ăn truyền thống như thịt nướng, cơm lam, canh thụt… tại hội xuân Liêng Nung. Ảnh: Minh Phương

Đắk Nông: Ấn tượng Hội xuân Liêng Nung ảnh 9
Đắk Nông: Ấn tượng Hội xuân Liêng Nung ảnh 10Các môn thể thao dân gian luôn thu hút sự quan tâm của người dân, du khách. Ảnh: Minh Phương
Đắk Nông: Ấn tượng Hội xuân Liêng Nung ảnh 11Vinh danh các đoàn đạt thành tích cao tại hội xuân. Ảnh: Minh Phương

Hội xuân Liêng Nung 2023 diễn ra hết ngày 2/2 (tức ngày 11 tháng giêng).

Hưng Thịnh

(TTXVN)
Dân tộc Mạ Dân tộc Mạ

Tên tự gọi: Mạ.

Tên gọi khác: Châu Mạ, Chô Mạ, Chê Mạ.

Nhóm địa phương: Mạ Ngăn, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung.

Dân số: 41.405 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Lịch sử: Người Mạ là cư dân sinh tụ lâu đời ở Tây Nguyên.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Hoạt động sản xuất: Nương rẫy đóng vai trò chủ yếu trong đời sống của người Mạ. Ðây là loại rẫy đa canh, ngoài trồng lúa còn trồng các loại cây khác như bắp, bầu, bí, thuốc lá, bông vải, ở vùng sông Ðồng Nai, người Mạ làm ruộng bằng kỹ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng quần đất đến khi nhão bùn thì gieo lúa giống. Họ tính năng suất của rẫy theo số gùi lúa thu được khi trỉa một gùi lúa giống. Công cụ làm rẫy chủ yếu là rìu, xà gạc, dao, liềm, gậy chọc lỗ, gùi. Nghề đánh cá khá phổ biến. Trước đây, họ biết chế thuốc độc từ loại lá rừng bỏ xuống suối để bắt cá. Người Mạ nổi tiếng về nghề trồng bông dệt vải.

Ăn: Cơm gạo tẻ với muối trộn ớt, sả, măng tươi và một số loại rau rừng. Cách chế biến thức ăn chủ yếu là nướng, luộc, nấu canh. Họ thích uống rượu cần và hút thuốc lá bằng điếu khan.

Mặc: Phụ nữ mặc váy quấn dài quá bắp chân, áo chui đầu vừa sát thân dài tới thắt lưng, kín tà. Nam đóng khố, áo hở tà, vạt sau dài hơn vạt trước. Mùa lạnh, người già thường khoác thêm tấm mền. Người Mạ có tập quán cà răng, căng tai, phụ nữ thích đeo chuỗi hạt cườm nhiều màu sắc. Thanh niên mang nhiều vòng đồng ở cổ tay có ngấn khắc chìm như là ký hiệu của các lễ hiến sinh tế thần linh, cầu mát cho chính mình.

: Người Mạ thường sống thành từng làng (bon) với một khu vực đất đai riêng biệt trên các cao nguyên Bảo Lộc, Di Linh, Ðạ Tẻ, lưu vực sông Ðồng Nai (Lâm Ðồng). Mỗi "bon" có từ 5 đến 10 nhà sàn dài. Nhà được làm bằng nứa, bương mai, hai mái lợp bằng lá mây. Mái cửa ra vào (cửa mẹ) uốn khum thành vòm bằng cành trúc đội trên mái cỏ. Xung quanh nhà ở, Họ còn dựng nhiều kho lúa trên sàn cao. Các cột nhà kho đều trang trí theo mô típ chày cối.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là chiếc gùi nan mang sau lưng với nhiều loại to nhỏ khác nhau. Chiếc gùi dùng đi xa được trang trí hoa văn qua các đường đan. ở vùng ven sông Ðồng Nai, người Mạ làm thuyền độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.

Quan hệ xã hội: Làng là đơn vị tổ chức xã hội cao nhất của người Mạ do chủ làng đứng đầu (quăng bon). Chủ làng có nhiệm vụ cùng tế trong các nghi lễ mang tính chất cộng đồng. Người Mạ tồn tại hai hình thức gia đình: gia đình lớn phụ quyền và gia đình nhỏ phụ quyền. Người chủ gia đình lớn là người cao tuổi nhất của thế hệ cao nhất trong gia tộc, có nhiệm vụ điều hành mọi công việc trong gia đình và trông coi các đồ dùng quý hiếm như chiêng, ché.

Trong loại gia đình lớn phụ quyền, từng cặp vợ chồng với con cái ở chung nhưng làm ăn riêng, còn gia đình nhỏ phụ quyền thì như một đơn vị kinh tế cá thể nhưng vẫn lưu giữ dấu vết của gia đình lớn phụ hệ.

Ngôi nhà dài truyền thống của người Mạ còn lại rất ít trong các buôn làng.

Cưới xin: Quyền chủ động hôn nhân do bên nhà trai, nhưng sau lễ cưới nếu nhà trai nộp đủ sính lễ thì đôi vợ chồng chỉ ở lại nhà gái 8 ngày, còn không, chàng trai phải ở rể đến khi nộp đủ mới được đưa vợ về nhà mình.

Sinh đẻ: Khi sinh con trai, nhau của đứa trẻ đựng trong vỏ trái bầu khô chôn trước nhà, nếu sinh con gái nhau chôn sau nhà. Sang ngày thứ 8, người mẹ bồng con ra sân tắm nắng, nếu con trai phải mang theo xà gạt, nỏ, dao vót nan, con gái mang theo gùi, rìu chẻ củi, túi đựng cơm và giới bên kia như xà gạt, rìu, ché, váy áo chôn cùng huyệt hoặc bỏ rải rác xung quanh mộ. Sau lễ mai táng thì bỏ mả và tang chủ phải kiêng 7 ngày không được vào rừng hoặc lên rẫy.

Thờ cúng: Người Mạ tin có thần (Yang). Họ thờ cúng nhiều Yang như Yang Hiu (thần nhà), Yang Koi (thần lúa), Yang Bơnơm (thần núi). Họ thường giết súc vật tế thần vào những dịp được mùa, sinh đẻ, bệnh tật, chết chóc. Lễ hiến sinh lớn nhất là lễ đâm trâu, thường được thực hiện lúc kết thúc mùa rẫy.

Lịch: Người Mạ theo âm lịch.

Học: Người Mạ không có chữ viết, nền văn hoá dân gian Mạ vẫn sống bằng lối sống nghìn xưa - thuộc lòng và truyền miệng.

Văn nghệ: Vốn văn học nghệ thuật dân gian khá phong phú gồm nhiều truyền thuyết, truyện cổ và những bài dân ca trữ tình gọi là "tam bớt".

Nhạc cụ truyền thống là bộ chiêng đồng 6 chiếc không núm. Khi hoà tấu có trống bịt da trâu đánh giáo đầu, giữ nhịp và đổ hồi trước khi kết thúc. Con trai Mạ thường thổi khèn bầu, sáo trúc, tù và bằng sừng trâu.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm