Cúng Thần rừng - giữ rừng thêm xanh

Cúng Thần rừng - giữ rừng thêm xanh

Tháng 3 Gia Lai - mùa con ong đi lấy mật cũng là thời điểm người Jrai ở xã Ia Pếch, huyện Ia Grai tề tựu về cánh rừng già của hai làng De Chí và O Grang để thực hiện nghi thức cúng Thần rừng. Đây là nghi lễ truyền thống hàng năm của người Jrai tại xã Ia Pếch nhằm tạ ơn Thần rừng đã che chở dân làng và cung cấp nhiều sản vật dưới tán rừng. Qua đó nhằm giáo dục thế hệ trẻ tiếp bước nâng cao ý thức gìn giữ, bảo vệ rừng.

Cúng Thần rừng - giữ rừng thêm xanh ảnh 1Lễ cúng Thần rừng có sự tham gia đầy đủ của toàn bộ người dân trong làng, các lực lượng chức năng làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ rừng. Ảnh: Quang Thái-TTXVN

Đã thành thông lệ, từ sáng sớm, trẻ già, trai gái men theo lối nhỏ vào rừng, đến nơi già làng chọn địa điểm gần khe nước suối dưới những tán rừng xanh để tổ chức lễ hội. Tại đây, ngoài rượu ghè và một số thức ăn đã chế biến sẵn từ nhà được mang vào trên những chiếc gùi, bà con bắt tay vào nướng cơm lam, xiên thịt lợn, nướng gà… rồi chọn ra một phần để già làng làm lễ cúng.

Bên cạnh con suối nhỏ Ia Cor - cách làng O Grang chừng 1 km, trước sự chứng kiến của người dân 2 làng De Chí và O Grang, chính quyền địa phương, lực lượng Kiểm lâm, 10 giờ 30 phút, lễ cúng bắt đầu.

Cúng Thần rừng - giữ rừng thêm xanh ảnh 2Già Siu Tới làng Organg, xã Ia Pếch là người chủ trì lễ cúng Thần rừng. Ảnh: Quang Thái-TTXVN

Dưới gốc dây leo đã xù xì theo thời gian, chủ lễ là già làng Siu Dơih đã chuẩn bị lễ vật gồm lợn quay, gà nướng, thịt nướng, rượu ghè cùng 1 bộ gan gà và 1 miếng thịt lợn sống. Tiếp đó, già Dơih khấn mời Thần Rừng, Thần Núi, Thần Nước về chứng kiến, che chở để dân làng có cuộc sống bình yên, no ấm. Theo truyền thống của người Jrai, lễ cúng rừng được tổ chức rất đơn giản, không đánh cồng chiêng vì sợ động đến thần núi, thần rừng. Lễ vật cũng tùy theo từng năm, nếu có điều kiện thì mổ lợn, mổ bò, còn không thì chỉ cần một con gà, ghè rượu, chiếc nỏ cùng bó tên là đủ.

Bên ché rượu cần và mâm lễ được bày biện, già Dơih trong bộ trang phục thổ cẩm dân tộc Jrai nghiêm trang đọc lời thề khấn với các vị thần linh, thay mặt dân làng cảm tạ thần rừng về năm qua cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, dân làng bình yên no đủ… Đồng thời, thay mặt dân làng, già Dơih hứa với thần rừng, bà con trong làng cùng chung tay giữ rừng, bảo vệ nguồn lợi từ rừng mang lại, ước mong rừng che chở cho dân làng trước thiên tai mưa lũ, cho một năm mới mọi loài phát triển, muông thú sinh sôi, mùa màng thuận lợi, người làng bình an, ấm cúng. Khi già Dơih cúng xong, lần lượt các già có vai vế trong làng tiếp tục các nghi thức cúng Thần rừng. Già Siu Dơih chia sẻ, năm nay, nhờ Thần rừng phù hộ mà cuộc sống của dân làng có nhiều thay đổi. Vì thế, để tạ ơn, làng có thêm con lợn quay để dâng lên Thần rừng.

Cúng Thần rừng - giữ rừng thêm xanh ảnh 3
Cúng Thần rừng - giữ rừng thêm xanh ảnh 4
Cúng Thần rừng - giữ rừng thêm xanh ảnh 5
Cúng Thần rừng - giữ rừng thêm xanh ảnh 6Già Siu Tới dâng lên một phần thức ăn ngon cúng Thần Rừng cầu cho mưa thuận gió hòa, che chở, bảo vệ cho dân làng. Ảnh: Quang Thái-TTXVN

Xã Ia Pếch hiện có gần 560 ha rừng, đều do cộng đồng 2 làng O Grang và De Chí nhận khoán quản lý, bảo vệ. Những năm gần đây, được sự khuyến khích, hỗ trợ của chính quyền huyện, xã, người dân 2 làng luân phiên tổ chức lễ cúng rừng, từ đó nâng cao ý thức bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời tạo sự đoàn kết trong cộng đồng dân cư.

Theo ông Ngô Khôn Tuấn - Chủ tịch UBND xã Ia Pếch, huyện Ia Grai, lễ cúng Thần rừng của người dân hai làng De Chí và O Grang là nghi lễ truyền thống. Thông qua nghi lễ này, người dân ở đây càng thêm yêu quý rừng, từ đó tham gia giáo dục và tuyên truyền chung tay bảo vệ rừng.

Trong nhiều năm qua, công tác quản lý và bảo vệ rừng của người dân hai làng De Chí và O Grang được thực thi rất tốt. Xã thành lập Tổ quản lý bảo vệ rừng để cùng với người dân làm tốt công tác quản lý, bảo vệ rừng. "Nhờ huy động được sức mạnh của toàn dân mà công tác bảo vệ rừng tại xã luôn đạt được kết quả cao. Bên cạnh bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có, người dân ở đây cũng đã tích cực tham gia nhận khoán bảo vệ rừng, trồng rừng", ông Tuấn cho biết thêm.

Nhờ tình yêu với rừng của người dân tại xã Ia Pếch, lực lượng chức năng làm nhiệm vụ quản lý và bảo vệ rừng đã bớt đi nhiều phần việc. Ông Đích Ích Hiệp - Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Ia Grai vui mừng, công tác quản lý, bảo vệ rừng tại đây là luôn điểm sáng. Người dân đã hỗ trợ rất nhiều cho lực lượng chức năng trong tuần tra, kiểm soát, trồng rừng.

Cúng Thần rừng - giữ rừng thêm xanh ảnh 7Lễ cúng Thần rừng được tổ chức vào tháng 3 hàng năm do người dân 2 làng De Chí và Ograng đảm nhận. Ảnh: Quang Thái-TTXVN

Nghi lễ cúng Thần rừng của người Jrai không chỉ là nét văn hóa gắn với triết lý đa thần của cư dân nông nghiệp mà còn một lần khẳng định giá trị nhân văn của cộng đồng: sống dựa vào rừng và cùng ý thức chung bảo vệ rừng, bảo vệ mẹ thiên nhiên. Việc duy trì và phát triển nét văn hóa này góp phần gìn giữ, bảo vệ những cánh rừng thêm xanh gắn với phát triển du lịch sinh thái.

Theo ông Đào Lân Hưng - Phó Chủ tịch UBND huyện Ia Grai nhiều năm qua, huyện rất quan tâm đến các hoạt động văn hóa tâm linh gắn với việc bảo vệ rừng. Huyện sẽ tiếp tục nhân rộng nghi thức cúng rừng đến các xã, đặc biệt là những vùng "nóng" về tình trạng xâm hại rừng; đồng thời, nhân rộng mô hình giao khoán rừng để người dân phối hợp phủ xanh đồi trọc, tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng.

Quang Thái

(TTXVN)
Dân tộc Gia Rai Dân tộc Gia Rai

Tên tự gọi: Gia Rai.

Tên gọi khác: Jrai, Giơ Ray, Chơ Ray.

Nhóm địa phương: Chor, Hđrung (gồm cả Hbau, Chor), Aráp, Mthur, Tơbuân.

Dân số: 122.245 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ hệ Malayô Pôlynêixa (ngữ hệ Nam Ðảo).

Lịch sử: Dân tộc Gia Rai là một trong những cư dân sớm sinh tụ ở vùng núi Tây Nguyên, lan sang một phần đất Campuchia. Trong xã hội Gia Rai xưa đã có Pơ tao ia (vua nước) và Pơ tao pui (vua lửa) chuyên cúng trời, đất, cầu mưa thuận gió hoà... Trước thế kỷ XI người Ê Ðê, Gia Rai được gọi chung một tên là Rang Ðêy. Vào thế kỷ XV-XVI sử sách phong kiến Việt Nam ghi nhận danh hiệu Thủy Xá (vua nước), Hoả Xá (vua lửa). Chỉ có người đàn ông họ Siu mới được làm vua lửa, vua nước và con gái họ Rơ chom mới được quyền làm vợ hai vua. Có lẽ chữ Pơ tao đồng nghĩa với Mtao của người Chăm, Tạo của người Thái và Thao của người Lào, đều chỉ người thủ lĩnh.

Hoạt động sản xuất: Kinh tế trồng trọt là cái gốc của hoạt động sản xuất. Ðất đai là đối tượng tác động lao động được phân chia thành hai loại - đất chưa canh tác có tên: đê, trá, lon, vô chủ và đất canh tác gọi chung là Hma, phần sở hữu của mỗi gia đình. Hma gồm những mảnh đất trồng trọt theo cách nửa vườn, nửa rẫy; nương phát, đốt, cuốc xới đất và trọc lỗ tra hạt. Còn ruộng nước dùng cuốc xới ; sục bùn và đang chuyển sang cày, bừa dùng 2 bò kéo.

Chăn nuôi gia đình: Trâu, bò, ngựa, voi, lợn, gà, chó... Trong đó trâu là vật ngang giá trong việc trao đổi vật quý như chiêng, ché và hiến sinh trong lễ nghi tín ngưỡng. Nghề phụ gia đình có: mộc, rèn và đan lát. Những người thợ thủ công đã làm ra những chiếc gùi dùng để đựng đồ mặc, trang sức, vận chuyển. Nghề dệt với khung dệt kiểu Inđônêdiêng khá thịnh hành tạo được tấm vải khổ rộng, hoa văn đẹp.

Ăn: Gạo tẻ là lương thực chính; lương thực phụ là ngô. Thức ăn có rau, muối, ớt, canh rau, lâu lâu mới có bữa thịt, cá. Bữa cơm hàng ngày có thể cả gia đình ngồi quanh nồi cơm, bát ớt... hoặc chia thành từng phần cho mỗi người. Bữa tiệc, lấy ché rượu cần làm trung tâm, quanh đó có các món ăn đựng trên bát, đĩa hoặc lá chuối để vừa ăn, vừa uống. Khi rượu ngà say có hát, nhảy múa, đánh chiêng. Trừ trẻ thơ, mọi người bất kể nam nữ đều hút thuốc lá.

Mặc: Ðàn ông đóng khố vải trắng kẻ sọc nhiều màu (toai), ngày lễ đóng khố vải chàm dài 4 m và rộng 0,30 m, có đường viền hoa văn và buông tua chỉ nhiều màu ở hai đầu. Áo màu đen cộc tay, hở nách, đường viền hoa văn chỉ màu chạy dọc hai sườn mang đậm dấu vết kiểu pông-sô. Pơtao hoặc chủ làng mặc áo chàm che kín mông, tay dài, chui đầu, có một mảng sợi màu đỏ làm khuy và khuyết cài từ cổ đến ngực. Dưới dải cúc là miếng vải đỏ hình vuông khâu đáp vào để làm dấu hiệu là áo. Ðàn bà mặc váy chàm (dài 1,40 m x rộng 1 m), có đường viền hoa văn chạy quanh gấu. Phần cạp có tua chỉ trắng hoặc màu. Váy không khâu liền thành ống nên khi mặc chỉ cuốn vào thân để chỗ giáp hai đầu về phía trước. Họ mặc áo cánh ngắn bó sát thân, dài tay. Trên cánh tay áo có chiếc được thêu những đường vòng hoa văn chỉ màu. Nơi ở quanh năm nóng nực nên cả nam lẫn nữ ưa thích cởi trần.

: Nhà sàn cho mỗi gia đình một vợ một chồng mẫu hệ. Kiến trúc có hai loại. Nhà sàn dài kiểu la-yun-pa, dài 13,5 m và rộng 3,5m là kích thước trung bình cho mỗi nhà. Nhà được phân thành hai phần: bên mang và bên óc. Cửa bên óc chỉ quay về hướng Bắc và bên óc dành cho những người đàn bà - chủ gia đình mẫu hệ. Trong nhà có hai bếp. Nhà nhỏ kiểu Hđrung với kích thước rộng 3m x dài 9m. Chiều cao từ đất lên đòn nóc không quá 4,50m. Cửa chính thông ra sàn phơi chỉ quay về hướng Bắc. Hai bên cửa chính có hai cửa sổ. Trong nhà chỉ có một bếp.

Phương tiện vận chuyển: Gùi có hai dây đeo qua vai là hình thức phổ biến. Ngoài ra có ngựa, voi để thồ và cưỡi. Voi còn dùng để kéo...

Quan hệ xã hội: Làng (Plơi hoặc Bôn) vừa là đơn vị cư trú vừa cấu kết thành tổ chức xã hội, có một hội đồng gồm những ông già chủ trì chung (Phun pơ bút). Hội đồng chọn người đứng đầu làng (Ơi pơ thun, Thap lơi hay Khoa plơi), có lệ làng gọi là Kđi. Xã hội Gia Rai truyền thống có hình thức cố kết vùng gọi là Tơ ring. Người đứng đầu Tơ ring là Khoa Tơ ring, giúp việc xét xử có Po phắt kđi và Thao kđi. Tơ ring là cộng đồng lãnh thổ, khi có chiến tranh trở thành liên minh quân sự.

Dòng họ theo chế độ mẫu hệ nên phả hệ hoàn toàn tính về dòng mẹ. Khối cộng đồng máu mủ được tập hợp thành từng họ - Kơ nung hoặc Ðgioai. Mỗi họ thường được phân chia nhiều ngành hoặc phân đôi, thành họ khác. Mỗi họ, mỗi ngành kiêng một tô tem riêng. Gia đình nhỏ mẫu hệ là nét nổi bật của người Gia Rai khác với trường hợp người Ê Ðê là đại gia đình mẫu hệ.

Cưới xin: Luật tục nghiêm cấm những người cùng ngành họ và dòng mẹ lấy nhau. Tuổi từ 18-19 nam nữ tự do lựa chọn người yêu, trong đó nữ chủ động lựa chọn lấy chồng. Phong tục giản đơn, không mang tính chất mua bán và do nhà gái chủ động. Bảo lưu tục chồng chết, vợ lấy em chồng và ngược lại vợ chết, chồng có thể lấy chị vợ. Khi đã thành vợ thành chồng thì đàn ông phải sang nhà vợ, không có trường hợp ngược lại.

Sinh đẻ: Bà mẹ được coi trọng. Khi mang thai họ không được làm việc nặng nhọc. Họ rất lo sợ đẻ khó và chết vì sinh nở. Khi sinh nở sản phụ phải kiêng khem nhiều thứ như không ăn cơm nấu mà chỉ dùng cơm lam, không ăn thịt mà chỉ ăn rau...

Ma chay: Người Gia Rai theo tục tất cả người cùng họ mẹ chôn chung một huyệt. Người đàn ông chết phải khiêng về chôn ở huyệt phía mẹ mình. Trong huyệt chung ấy, các quan tài được xếp kề sát bên nhau theo chiều ngang rồi chồng lên theo chiều dọc. Khi quan tài cao bằng miệng huyệt thì lấy ván kê bốn bề để chôn tiếp vài ba lớp nữa mới làm lễ "bỏ mả" (Họa lui, Thi nga hay Bó thi) - một nghi thức lớn trong quá trình tang lễ.

Nhà mới: Việc làm nhà mới bắt đầu bằng nghi thức bói tìm đất. Bà chủ đem 7 hạt gạo đặt trên đất rồi lấy cái bát úp lên để bói tìm sự linh ứng của thần đất. Sau 3 ngày, 3 đêm đi lật bát lên xem nếu hạt gạo còn nguyên là thuận. Ngược lại, mất hạt nào thì phải đi phải đi bói tìm chỗ khác. Ðặt hạt gạo để bói xong tổ chức ăn uống, hò reo, múa chiêng 3 ngày. Dựng nhà xong lại mở hội nhà mới 3 hôm nữa mới kết thúc.

Thờ cúng: Người Gia Rai theo vạn vật hữu linh. Thần linh (Yang) có nhiều loại, trong đó có ba loại nổi bật được nhắc đến trong lễ cúng hàng năm hay nhiều năm một lần:

Thần nhà (Yang sang) lực lượng bảo vệ nhà cửa được cúng trong nhà. Khi nhà mới dựng thì phải tiến hành nghi thức lễ đâm trâu và trồng cây gạo.

Thần làng (yang ala bôn) và thần nước (yang ia) là lực lượng bảo vệ làng xóm và cuộc sống của mọi thành viên được cúng ở bến nước và chân núi.

Thần vua (Yang pó tao) do vua lửa, vua nước, vua gió (ptao agin) tiến hành lễ cầu trời, mưa thuận, gió hoà và mùa màng tươi tốt.

Ngoài ra, người Gia Rai còn tin khi chết các linh hồn biến thành ma. Có hiện tượng gán cho người có ma thuật làm hại gọi là ma lai.

Lễ tết: Xưa nam nữ đến tuổi thành niên có tục cưa răng hàm trên. Việc này do ông già Pô khoa tkơi thực hiện bằng cách lấy liềm cắt hoặc dùng một viên đá ráp chà xát vào hàm răng trên, ở ven suối. Cầm máu răng bằng lá thuốc (Tkoi am). Nữ 1-2 tuổi xâu lỗ tai, sau đó lấy bấc cây căng dần tai ra để đến khi trưởng thành thì đeo hoa tai bằng ngà voi có đường kính đến 6 cm. Nam giới không căng tai mà chỉ đục lỗ để đeo khuyên.

Lễ nghi lớn nhất là lễ bỏ mả, tạc tượng mồ, lễ lên nhà mới, có ăn, uống, hát, biểu diễn cồng chiêng.

Lịch: Tháng giêng được tính từ ngày có trận mưa đầu tiên tương đương với tháng 4 dương lịch. Tháng 12 lịch Gia Rai (tháng 3 dương lịch) gọi là Blanning, nghỉ ngơi lao động và làm các lễ nghi tôn giáo, tín ngưỡng.

Học: Người Gia Rai đã có bộ chữ theo mẫu tự La-tinh. Giống như tất cả các dân tộc khác, hiện nay học sinh đều học tiếng và chữ phổ thông.

Văn nghệ: Người Gia Rai có nhiều trường ca như Ðăm San, Xinh Nhã, Ðăm Di... thể hiện dưới hình thức hát thơ có đệm đàn Tưng nưng. Những điệu vũ dân gian Gia Rai có một số động tác mô phỏng những cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc. Ðàn Tơ rưng, Krông put, Tưng nưng ... rất được phổ biến.

Chơi: Thanh niên thích chơi kéo co trong ngày lễ.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm