Cúng sức khỏe - nghi lễ vòng đời của người Ê Đê

Cúng sức khỏe - nghi lễ vòng đời của người Ê Đê
Người Tây Nguyên thực hiện nghi lễ Cúng sức khỏe để tỏ lòng thành kính tới các đấng thần linh và mong muốn, các thần linh che chở phù hộ cho con, cháu, buôn làng.
 Chuẩn bị lễ vật dâng cúng

Hàng năm, vào những thời gian rảnh rỗi nông nhàn và của cải trong gia đình đã chuẩn bị đầy đủ, chủ nhà mời anh em bên họ của vợ (Dam adei) để bàn bạc và phân công việc để tổ chức cúng mừng sức khỏe cho con, cháu, anh em họ tộc của mình, lễ cúng mừng sức khỏe này thể hiện lòng yêu quý con cháu, tôn kính những người có công trong họ tộc và kính mong các đấng thần linh, ông bà tổ tiên phù hộ cho con cháu được khỏe mạnh.
 
Lễ vật dâng cúng.
Lễ vật dâng cúng.
Lễ vật dâng cúng là một ché rượu và vòng Kông một con gà trống, lễ này gọi Cut Kông, trao vòng Kông. Vào lễ, chủ nhà (tức vợ trong gia đình – tượng trưng cho thế lực và uy quyền và mẫu hệ dòng tộc) được ông chủ mời ngồi vào chiếc chiếu hoa đã được trải sẵn bên bếp lửa ngay cột nhà chính. Sau đó già làng (chủ lễ) cầm con gà trống thiến còn sống dâng cúng ông bà tổ tiên quay về phía đông bên hàng ché rượu.

Cúng Phat Mtao (trao vòng Kông)

Ở lần cúng đầu tiên: Lễ vật dâng cúng là một ché rượu và vòng Kông một con gà trống, lễ này gọi Cut Kông, trao vòng Kông. Vào lễ, chủ nhà (tức vợ trong gia đình – tượng trưng cho thế lực và uy quyền và mẫu hệ dòng tộc) được ông chủ mời ngồi vào chiếc chiếu hoa đã được trải sẵn bên bếp lửa ngay cột nhà chính.
Thầy cúng trao vòng sức khỏe cho gia chủ.
Thầy cúng trao vòng sức khỏe cho gia chủ.
Thầy cúng quay về phía đông bên hàng ché rượu khấn ông bà tổ tiên: “Ơ Yàng bên Đông! Ơ Giàng bên Tây! Ơ thần linh, thần tốt! người này đã ở chòi, chòi yên. Đã ở nhà, nhà tốt. Anh ta đã biết đốt rẫy trồng lúa. Trồng chuối, chuối sai. Trồng mía, mía ngọt. người này đã lớn tuổi. Nay nhờ thần phù hộ, giúp cho người này có hơi thở tốt. Có nguồn sức lực tốt. Có bắp thịt bền như gang, dẻo như đồng, cứng như sắt. Nhờ thần linh giúp người này luôn khoẻ mạnh, bình yên.
Già làng mời người được cúng sức khỏe uống rượu cần.
Già làng mời người được cúng sức khỏe uống rượu cần.
Già làng khấn xong, bước đến ché rượu đầu tiên cầm lấy cần rượu và trao cho người được cúng sức khỏe. Tiếp đến chủ nhà (người vợ) trao cần rượu cho các con và dì, cậu, cô… trong dòng họ để cầu chúc cho người được cúng sức khỏe.

Cúng Yang Êsêi (thần ban sức khỏe)

Ở lần cúng thứ hai lễ vật dâng cúng tiết heo, thịt băm, tim, gan, ba chén cơm, ban chén rượu (trong đó có hai chén rượu nhỏ cho thần linh) tiếng chiêng và trống nổi lên thầy cũng cầm cần hút rượu vào chén đồng, đặt trước mặt chủ nhân: người nhận lễ: “Hỡi thần mẹ đẻ ra, thần cha sinh thành, thần bản mệnh, thần tạo ra muôn loài, thần ngự dưới đất, thần ở trên trời, hãy ban cho con cháu mọi điều tốt lành, để cho con cháu mạnh giỏi như tổ tiên xưa, có một cái bát phải giữ không bị mẻ, có một cái vòng phải trồng cho khỏe, không được ốm đau, để cho con cháu được sống vui vẽ mạnh khỏe, có sức cầm cái chày cái cối, nuôi cháu được khỏe nuôi con được tốt”.
Lần lượt từng người trong gia đình uống rượu và ăn thịt mừng sức khỏe cho gia chủ.
Lần lượt từng người trong gia đình uống rượu và ăn thịt mừng sức khỏe cho gia chủ.
Thay mặt thần linh, thầy cúng trao cho anh chiếc khiên và thanh kiếm (sà gạc). thầy cúng cho chàng trai ăn thịt và cầm cần ba ché tiếp theo, lần lượt ông bà, cha mẹ ăn thịt cầm cần rượu nhấp những ngụm rượu cần cùng cầu chúc sức khỏe cho gia chủ.
Các thành viên trong gia đình cùng nhấp những ngụm rượu cần.
Các thành viên trong gia đình cùng nhấp những ngụm rượu cần.
Dàn chiêng trổ tài diễn tấu, thầy cúng ngửa mặt lên trời, hai bàn tay nắm lại, khấn: Ơ Yàng ở phía Đông, Yàng ở phía Tây, Yàng trên mây, Yàng dưới nước, các Yàng đất, Yàng rừng… Yàng hãy ban cho chúng tôi nơi trú ngụ yên lành. Nay tôi cột ché rượu này mời các Yàng về ăn cơm. Rượu này thần uống. Cơm này thần ăn. Hãy bảo vệ ngôi nhà mới cho chúng tôi vững chắc mạnh khỏe, xua đuổi ma quỷ, hãy cho cuộc sống bình yên, lao động sản xuất lúa bắp tràn đến nóc đầy khắp nhà. Lời tôi ước xin các Yàng hãy nhận. Lời tôi cầu xin các Yàng hãy nghe. Ơ Yàng!”. Thầy cũng mời người phụ nữ chủ gia đình cầm cần ché rượu đầu tiên. Sau đó mới trao cần cho chồng, sang tay nối tiếp cần rượu các ché thứ 1, thứ 2, thứ 3… Từ lúc này trở đi, cần rượu không được buông khỏi tay người.

Cúng Yang Hleang (thần linh phụ hộ)

Với lần cúng thứ ba, Thầy cúng cầu khấn thần nuôi dưỡng, thần hộ mệnh, nếu chàng trai này bị đe dọa mong thần bảo vệ, nếu thần ác làm hại mong thần giúp đở để có sức mạnh, đừng cho thần Briêng nhập vào thân thể, chân tay của con người này, cầu cho người này có sức khỏe mạnh mẽ.
Thầy cúng cầu xin thần linh phù hộ.
Thầy cúng cầu xin thần linh phù hộ.
Đây rượu cần đã cúng, con heo đã dâng, chàng trai này đã to thành như con ngựa, nhanh như con hổ, này rượu cần đã mời, thần hãy xuống cùng chúng con...Hỡi thần. Người được cúng cầm cân rượu ba ché rượu tiếp theo và mọi người cùng tiến hành nghi thức uống rượu mừng.

Cúng Yang Kleang Kông (thần trời, thần đất, sông, suối, núi, đồi…)

Sau ba lần dâng cúng, Thầy cúng ngửa mặt trời, hai bàn tay nắm lại khấn: "Ơ Yàng ờ phía đông, Yàng ở phía tây, Yàng dưới nước, các Yàng đất, Yàng rừng... Yàng về ăn cơm. Rượu này thần uống khỏe, xua đuổi ma quỷ, hãy cho cuộc sống bình yên, lao động sản xuất lúa bắp tràn đến nóc đầy khắp nhà. Lời tôi xin ước các Yàng hãy nhận. Lời tôi xin các Yàng hãy nghe. Ơ Yàng!".

Thầy cúng mời phụ nữ chủ gia đình cầm rượu ché thứ 1, thứ 2, thứ 3... lần lượt từng người vừa cần cân chúc phúc cho người khỏe manh vừa ăn thịt.
Các thành viên trong gia đình lên đeo vòng và cầu sức khỏe cho gia chủ.
Các thành viên trong gia đình lên đeo vòng và cầu sức khỏe cho gia chủ.
Phần cuối cùng của buổi lễ, thầy cúng mời các thành viên trong gia đình lên chúc mừng nhân vật chính của buổi lễ. Người Ê Đê theo mẫu hệ nên trước hết là các cô, dì, các chị em trong họ, rồi đến bà con hàng xóm. Hết lượt của phụ nữ thì đàn ông đến chúc mừng. Người đến chúc mừng cầm theo chiếc vòng đồng và món quà nhỏ đi tặng.
Hòa theo nhịp chiêng đồng bào múa hát mừng sức khỏe.
Hòa theo nhịp chiêng đồng bào múa hát mừng sức khỏe.
Đồng bào múa khiên mừng lễ cúng.
Đồng bào múa khiên mừng lễ cúng.
Theo langvietonline.vn
Dân tộc Ê Đê Dân tộc Ê Đê

Tên tự gọi: Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay Rhađê), ê Ðê, êgar, Ðê.

Nhóm địa phương: Kpă, Adham, Krung, Mđhur, Ktul, Dliê, Hruê, Bih, Blô, Kah, Kdrao, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Ktlê, Êpan... 

Dân số: 331.194 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói của người Ê Đê thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Ðảo).

Lịch sử: Người Ê Đê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền trung Tây Nguyên. Dấu vết về nguồn gốc hải đảo của dân tộc Ê Đê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê Đê vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Ê Đê chủ yếu trồng lúa rẫy theo chế độ luân khoảnh. Rẫy sau một thời gian canh tác thì bỏ hoá cho rừng tái sinh rồi mới trở lại phát, đốt. Chu kỳ canh tác khoảng từ 5-8 năm tuỳ theo chất đất và khả năng hồi phục của đất. Rẫy đa canh và mỗi năm chỉ trồng một vụ. Ruộng nước trâu quần chỉ có ít nhiều ở vùng Bih ven hồ Lắc.

Gia súc được nuôi nhiều hơn cả là lợn và trâu, gia cầm được nuôi nhiều là gà, nhưng chăn nuôi chủ yếu chỉ để phục vụ cho tín ngưỡng. Nghề thủ công gia đình phổ biến có nghề đan lát mây tre làm đồ gia dụng, nghề trồng bông dệt vải bằng khung dệt kiểu Inđônêdiêng cổ xưa. Nghề gốm và rèn không phát triển lắm. Trước đây việc mua bán, trao đổi bằng phương thức hàng đổi hàng.

Ăn: Người Ê Đê ăn cơm tẻ bằng cách nấu trong nồi đất nung hay nồi đồng cỡ lớn. Thức ăn có muối ớt, măng, rau, củ do hái lượm, cá, thịt, chim thú do săn bắn. Thức uống có rượu cần ủ trong các vò sành. Xôi nếp chỉ dùng trong dịp cúng thần. Nam nữ đều có tục ăn trầu cau.

Mặc: Trang phục truyền thống là phụ nữ quấn váy tấm dài đến gót, mùa hè thì ở trần hay mặc áo ngắn chui đầu. Nam giới thì đóng khố, mặc áo cánh ngắn chui đầu. Mùa lạnh, nam nữ thường choàng thêm một tấm mền. Ðồ trang sức có chuỗi hạt, vòng đồng, vòng kền đeo ở cổ và tay, chân. Nam nữ đều có tục cà răng-căng tai và nhuộm đen răng. Ðội đầu có khăn, nón.

: Ðịa bàn cư trú chủ yếu hiện nay là tỉnh Ðắk Lắk, phía nam tỉnh Gia Lai và miền tây Phú Yên, Khánh Hòa. Ngôi nhà truyền thống của người Ê Đê là nhà sàn dài, kiến trúc mô phỏng hình thuyền với 2 đặc trưng cơ bản là: hai vách dọc dựng thượng thách - hạ thu; hai đầu mái nhô ra. Nhà chỉ có hai hàng cột ngang, kết cấu theo vì cột, không kết cấu theo vì kèo. Không gian nội thất chia ra làm hai phần theo chiều dọc. Phần đầu gọi là Gah, vừa là phòng khách, vừa là nơi sinh hoạt cộng đồng của cả đại gia đình mẫu hệ. Phần cuối gọi là ôk, dành cho các cặp hôn nhân ở trong từng buồng có vách ngăn bằng phên nứa.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là gùi đan cõng trên lưng bằng đôi quai quàng qua vai. ở vùng Krông Băk phổ biến có loại gùi cao cẳng. Vận chuyển trên bộ thì có voi nhưng không phổ biến lắm.

Quan hệ xã hội: Gia đình Ê Đê là gia đình mẫu hệ, hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con mang họ mẹ, con gái út là người thừa kế. Xã hội Ê Đê vận hành theo tập quán pháp truyền của tổ chức gia đình mẫu hệ. Cả cộng đồng được chia làm hai hệ dòng để thực hiện hôn nhân trao đổi. Làng gọi là buôn và là đơn vị cư trú cơ bản, cũng là tổ chức xã hội duy nhất. Người trong một buôn thuộc về nhiều chi họ của cả hai hệ dòng nhưng vẫn có một chi họ là hạt nhân. Ðứng đầu mỗi làng có một người được gọi là chủ bến nước (Pô pin ca) thay mặt vợ điều hành mọi hoạt động của cộng đồng.

Cưới xin: Người phụ nữ chủ động trong việc hôn nhân, nhờ mai mối hỏi chồng và cưới chồng về ở rể. Khi một trong hai người qua đời thì gia đình và dòng họ của người quá cố phải có người đứng ra thay thế theo tục "nối dòng" (chuê nuê) để cho người sống không bao giờ đơn lẻ, sợi dây luyến ái giữa hai dòng họ Niê và Mlô không có chỗ nào bị đứt theo lời truyền bảo của ông bà xưa.

Ma chay: Khi có người chết thì tục nối dòng phải được thực hiện. Người chết già và chết bệnh thì tang lễ được tổ chức tại nhà rồi đưa ra nghĩa địa thổ táng. Xưa kia có tục người trong một dòng họ chết trong một thời gian gần nhau thì các quan tài được chôn chung một huyệt. Vì quan niệm thế giới bên kia là sự tái hiện thế giới bên này nên người chết được chia tài sản đặt ở nhà mồ. Khi dựng nhà mồ, lễ bỏ mả được tổ chức linh đình, sau đó là sự kết thúc việc săn sóc vong linh và phần mộ.

Nhà mới: Việc làm nhà được cả làng quan tâm. Sự giúp đỡ lẫn nhau về nguyên vật liệu: gỗ, tre, nứa và tranh lợp cũng như ngày công thông qua hình thức gọi là H’rim zít (tổ chức "giúp công" lao động hay "đổi công" trong làng). Lễ khánh thành được tiến hành sau khi dựng xong hàng cây chân vách. Nhưng việc dọn lên nhà mới có thể được thực hiện trước đó một thời gian dài khi các điều kiện để khánh thành nhà chưa cho phép. Nữ giới là đoàn người đầu tiên được bước lên sàn nhà mới. Họ mang theo nước và lửa để sưởi ấm và tưới mát cho nơi cư trú mới mẻ này. Ðó là cách chúc phúc cho ngôi nhà và các thành viên của gia chủ. Dẫn đầu các thành viên nữ là một khoa sang – bà chủ của gia đình mẫu hệ.

Lễ Tết: Người Ê Đê ăn tết vào tháng chạp (tháng 12 lịch âm) khi mùa màng đã thu hoạch xong (không vào một ngày nhất định, tuỳ theo từng buôn). Sau tế ăn mừng cơm mới (hmạ ngắt) rồi mới đến tết (mnăm thun) ăn mừng vụ mùa bội thu. Ðó là tết lớn nhất, nhà giàu có khi mổ trâu, bò để cúng thần lúa; nhà khác thì mổ lợn gà. Vị thần lớn nhất là đấng sáng tạo Aê Ðiê và Aê Ðu rồi đến thần đất (yang lăn), thần lúa (yang mđiê) và các thần linh khác. Phổ biến quan niệm vạn vật hữu linh. Các vị thần nông được coi là phúc thần. Sấm, sét, giông bão, lũ lụt và ma quái được coi là ác thần. Nghi lễ theo đuổi cả đời người và lễ cầu phúc, lễ mừng sức khoẻ cho từng cá nhân. Ai tổ chức được nhiều nghi lễ này và nhất là những nghi lễ lớn hiến sinh bằng nhiều trâu, bò, chè quý (vò ủ rượu cần) thì người đó càng được dân làng kính nể.

Lịch: Nông lịch cổ truyền Ê Đê được tính theo tuần trăng: một năm có 12 tháng và được chia làm 9 mùa tương ứng với 9 công đoạn trong chu kỳ nông nghiệp rẫy: mùa phát rẫy, mùa đốt rẫy mới, mùa xới đất, mùa diệt cỏ... Mỗi tháng có 30 ngày.

Học: Việc học tập (học nghề, truyền bá kiến thức...) theo lối làm mẫu, bắt chước và nhập tâm, truyền khẩu. Ðến năm 1923 mới xuất hiện chữ Ê Đê theo bộ vần chữ cái La-tinh.

Văn nghệ: Có hình thức kể khan rất hấp dẫn. Về văn chương, khan là sử thi, trường ca cổ xưa; về hình thức biểu diễn là loại ngâm kể kèm theo một số động tác để truyền cảm. Về dân ca có hát đối đáp, hát đố, hát kể gia phả... Nền âm nhạc Ê Đê nổi tiếng ở bộ cồng chiêng gồm 6 chiêng bằng, 3 chiêng núm, một chiêng giữ nhịp và một trống cái mặt da. Không có một lễ hội nào, một sinh hoạt văn hoá nào của cộng đồng lại có thể vắng mặt tiếng cồng chiêng. Bên cạnh cồng chiêng là các loại nhạc cụ bằng tre nứa, vỏ bầu khô như các dân tộc khác ở Trường Sơn, Tây Nguyên, nhưng với ít nhiều kỹ thuật riêng mang tính độc đáo.

Chơi: Trẻ em thường thích chơi cù quay, thả diều vằng có sáo trúc. Trò chơi đi cà kheo trên cao nguyên cũng lôi cuốn không ít thiếu niên Ê Đê ở nhiều nơi. Trò bịt mắt dê, ném lao (ném xa và ném trúng mục tiêu cũng được nhiều trẻ em Ê Đê ưa thích.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm