Chiếc chiếu Lùn – vật dụng vô giá của người Chơ Ro

Chiếc chiếu Lùn – vật dụng vô giá của người Chơ Ro
Nhắc đến chiếc chiếu hẳn chẳng ai trong chúng ta không biết đến bởi nó là một vật dụng thân quen và gần gũi đối với việc sinh hoạt hàng ngày của người dân Việt Nam từ xưa đến nay. Nhưng đối với người Chơ Ro (Đồng Nai) nó trở thành một vật dụng vô cùng quý báu.
Chiếc chiếu Lùn đã đi sâu vào đời sống văn hóa truyền thống của dân tộc Chơ Ro.
Chiếc chiếu Lùn đã đi sâu vào đời sống văn hóa truyền thống của dân tộc Chơ Ro.

Bởi thế không giống như những chiếc chiếu bình thường được dệt bằng khung, chiếc chiếu Lùn của người Chơ Ro được đan hoàn toàn bằng tay, rất cầu kỳ và cận thận. Nét hoa văn trên chiếu đã phần nào phản ánh đời sống văn hóa độc đáo của bà con dân tộc.Nguyên liệu làm nên chiếc chiếu rất đặc biệt được lấy hoàn toàn từ thân của cây Lùn - một loại cây mọc ở vùng đầm lầy, ven suối. Đây là loại cây có chiều cao khoảng 1,4m đến 2 mét. Chỉ có phần thân thẳng của cây không bị sâu bệnh, không có vết thương mới được sử dụng để đan chiếu.

Công đoạn làm chiếu cũng rất cầu kỳ, đồng bào dân tộc Chơ Ro phải mất rất nhiều công sức mới có thể hoàn thành một sản phẩm. Họ phải vào rừng sâu để tìm kiếm những cây Lùn có đủ tiêu chuẩn để đem về. Sau đó họ chẻ thân cây Lùn và lột vỏ đem phơi và vót nan trong vòng 2 -3 ngày để chống mối mọt, sau đó lại ngâm ngập nước hoặc phơi sương 1 đêm. Khi các nan đã khô, họ bắt đầu đan, thời gian đan chiếu thường mất 2 đến 3 ngày mới hoàn chỉnh 1 sản phẩm.

Để có được một chiếc chiếu Lùn đẹp, người đan không chỉ là người có hoa tay mà có cả óc sáng tạo hoa văn thẩm mỹ. Tùy vào cảm hứng sáng tác của mỗi người mà tạo ra những hình thù hoa văn khác nhau trên thân chiếu. Nhưng chủ yếu, những đường nét mỹ thuật trên chiếu là hình thoi, hình chữ N hoặc những hình ảnh về thiên nhiên cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của bà con dân tộc.

Trong quá trình đan, việc tạo đường tim khi mới bắt đầu vào công đoạn đan đầu tiên là một điểm đòi hỏi sự cẩn thận và kỹ lưỡng của người đan chiếu Lùn. Nếu không biết tạo đường tim sẽ không thể tạo được hoa văn và sự cân đối của thành phẩm như mong muốn. Khi đan chiếu, người ta phải kéo làm sao cho các nan thật khít vào nhau thì chiếu sẽ không có khe hở và nhìn một cách chắc chắn, sau quá trình sử dụng sẽ không bị xô vẹo, xộc sệch. Chiều dài và rộng của chiếu phải được căn chỉnh sao cho từ tim chiếu ra các cạnh của chiếu được đều nhau.

Người dân Chơ Ro rất tự hào về nghề làm chiếu Lùn truyền thống này, nó đã đi sâu vào đời sống văn hóa truyền thống của dân tộc Chơ Ro. Đặc biệt, chiếu Lùn không thể thiếu được trong các Lễ cưới, khi cô dâu và chú rể cùng nhau quỳ gối để mời rượu cha mẹ và gia đình trong suốt buổi lễ. Chính vì thế chiếc chiếu Lùn đã trở thành vật dụng vô giá trong đời sống của người Chơ Ro (Đồng Nai).
Theo dantocviet.cinet.gov.vn
Dân tộc Chơ Ro Dân tộc Chơ Ro

Tên gọi khác: Châu Ro, Dơ Ro, Chro, Thượng.

Dân số: 26.855 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Họ là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Ðông Dương.

Hoạt động sản xuất: Người Chơ Ro chủ yếu làm rẫy, canh tác theo lối phát đốt rồi chọc lỗ tra hạt. Cách phân bố các loại cây trồng trên rẫy khá độc đáo. Vòng ngoài cùng của rẫy thì trồng một số loại cây dây leo như: bầu, bí, mướp, đậu ván... vòng trong trồng sắn. Toàn bộ diện tích còn lại phía trong là trồng lúa có xen canh vừng. Hiện nay, ngoài lúa rẫy, một số nơi đã làm ruộng nước có trâu cày. Việc săn bắn, hái lượm thường tập trung vào thời gian nông nhàn (khoảng tháng 6, 7 âm lịch). Nghề làm vườn, chăn nuôi trong gia đình và thủ công nghiệp chưa phát triển. Chỉ có nghề đan lát bằng tre, mây nứa là phổ biến. Trước đây một số người Chơ Ro đã là phu đồn điền nhưng chỉ với tư cách là những thợ rừng, họ vẫn có rẫy để canh tác.

Ăn: Người Chơ Ro ăn cơm tẻ là chính, hút thuốc lá sợi bằng tẩu. Thức uống có rượu cần. Nam nữ đều ưa thích ăn trầu cau.

Mặc: Xa xưa đàn ông đóng khố, đàn bà quấn váy tấm. Mùa hè ở trần hay mặc áo cánh ngắn, mùa lạnh thường khoác trên mình một tấm chăn. Nhưng ngày nay, đại đa số người Chơ Ro đã ăn mặc theo lối của người Việt cùng địa phương. Ðiều mà khách qua đường có thể nhận biết được người Chơ Ro là họ thường cõng trên lưng một cái gùi. Ðàn bà thường đeo ở cổ những chuỗi hạt cườm ngũ sắc hoặc vòng đồng, vòng bạc hay nhôm. Thiếu nữ thường mang kiềng, dây chuyền và đeo vòng tai rộng vành.

: Hiện nay, người Chơ Ro sống tập trung ở vùng núi thấp thuộc tây nam và đông nam tỉnh Ðồng Nai. Nơi có số người Chơ Ro cư trú nhiều nhất là các xã: Xuân Bình, Xuân Trường, Xuân Thọ, Xuân Phú thuộc huyện Xuân Lộc; rồi thứ đến là các xã Hắc Dịch, Phước Thái, Ngãi Dao, Bàu Lâm thuộc huyện Châu Thành. Rải rác tại Sông Bé (tỉnh Sông Bé từ năm 1997 đã được chia tách thành 2 tỉnh Bình Dương, Bình Phước) và Bà Rịa, ven quốc lộ 15 cũng có một số gia đình Chơ Ro sinh sống. Trước khi có mặt tại những địa điểm nói trên, họ đã từng cư trú chủ yếu tại Bà Rịa - Long Khánh. Từ giữa thế kỉ XX trở lại đây, người Chơ Ro tiếp thu ngày càng mạnh mẽ văn hoá - nếp sống của người Việt ở miền Ðông Nam bộ. Trước đây, họ ở trên những ngôi nhà sàn cao, cửa ra vào mở ở đầu hồi. Ðến nay phổ biến ở nhà đất. Họ đã tiếp thu lối kiến trúc nhà cửa người nông dân Nam bộ: nhà có vì kèo. Nét xưa còn giữ được trong ngôi nhà là cái sạp nằm, chiếm nửa diện tích theo chiều ngang và dài suốt từ đầu đến cuối phần nội thất. Một số nhà có tường xây, mái ngói.

Phương tiện vận chuyển: Phương tiện vận chuyển chủ yếu của người Chơ Ro là cái gùi đan bằng tre, mây, cõng ở trên lưng.

Quan hệ xã hội: Trong cơ cấu xã hội Chơ Ro, các quan hệ của gia đình mẫu hệ đã tan rã nhưng quan hệ của gia đình phụ hệ chưa xác lập được. Tính chất gia đình song phương có nhiều biểu hiện, quyền thừa kế tài sản vẫn thuộc về người con gái. Trong gia đình, nữ giới vẫn được nể vì hơn nam giới. Xã hội mới manh nha có sự phân hoá về tài sản. Trong một làng gồm có nhiều dòng họ cùng cư trú.

Cưới xin: Việc lấy chồng, lấy vợ của người Chơ Ro tồn tại cả hai hình thức: nhà trai đi hỏi vợ hoặc nhà gái đi hỏi chồng. Hôn lễ tổ chức tại nhà gái, sau lễ thành hôn thì cư trú phía nhà vợ, sau vài năm sẽ dựng nhà ra ở riêng.

Ma chay: Người Chơ Ro theo tập quán thổ táng. Mộ phần được đắp cao lên theo hình bán cầu. Trong 3 ngày đầu, người ra gọi hồn người chết về ăn cơm; sau đó là lễ "mở cửa mả" với 100 ngày cúng cơm. Tập quán dùng vàng mã đã xuất hiện trong tang lễ của người Chơ Ro và hàng năm cứ vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, người ta đi tảo mộ như người Việt ở địa phương.

Nhà mới: Lễ khánh thành nhà mới luôn là dịp chia vui giữa gia chủ với dòng họ và buôn làng.

Lễ tết: Ngày cúng thần lúa là dịp lễ trọng hàng năm. Các loại bánh như: bánh tét, bánh ống và bánh giầy trộn vừng được mọi nhà chế biến để ăn mừng và tiếp khách. Lễ cúng thần rừng được tổ chức như một dịp hội làng và hiện nay, cứ 3 năm một lần nghi lễ này lại được tổ chức trọng thể.

Lịch: Người Chơ Ro cũng có nông lịch riêng theo chu kỳ canh tác rẫy và căn cứ vào tuần trăng.

Học: Xã hội truyền thống Chơ Ro chưa có chữ viết. Việc học hành truyền bá kiến thức cho thế hệ sau theo lối truyền khẩu.

Văn nghệ: Vốn văn nghệ dân gian chỉ còn một vài điệu hát đối đáp trong những dịp lễ hội, họ cất lên lời khẩn cầu Thần lúa và hiện nay rất ít người biết đến. Nhạc cụ đáng lưu ý đến là bộ chiêng đồng 7 chiếc gồm 4 chiếc nhỏ và 3 chiếc lớn. Ngoài ra, đàn ống tre, sáo dọc còn thường thấy ở vùng núi Châu Thành.

Chơi: Trẻ em thích chơi kéo co, cướp cành lá, bịt mắt bắt nhau, thả diều và đánh cù.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm