Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mường ở Thanh Sơn

Đồng bào Mường huyện Thanh Sơn bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc. Ảnh:baophutho.vn
Đồng bào Mường huyện Thanh Sơn bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc. Ảnh:baophutho.vn

Sau ba năm thực hiện "Đề án kiểm kê, sưu tầm, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường giai đoạn 2017- 2020, định hướng đến năm 2025" của UBND huyện Thanh Sơn (Phú Th), đến nay các xã trên địa bàn huyện đã có nhiều giải pháp, cách làm cụ thể nhằm bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Mường.

Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mường ở Thanh Sơn ảnh 1Đồng bào Mường huyện Thanh Sơn bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc. Ảnh:baophutho.vn

Thanh Sơn là huyện miền núi có nhiều dân tộc cùng sinh sống, trong đó người Mường chiếm gần 60% dân số. Trong những năm qua, công tác bảo tồn, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Mường trên địa bàn luôn được quan tâm, chú trọng và phát huy.

Hiện nay, trên địa bàn huyện Thanh Sơn đang lưu giữ, bảo tồn được hơn 300 chiếc chiêng, hơn 400 bộ trang phục dân tộc Mường, gần 100 nhà sàn truyền thống và nhiều công cụ lao động sản xuất, sinh hoạt, vẫn được bảo tồn trong các gia đình đồng bào dân tộc Mường. Huyện cũng chú trọng phát triển mô hình du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường. Việc làm này không chỉ góp phần xây dựng, phát triển đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh cho đồng bào các dân tộc vùng núi Thanh Sơn, mà còn góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội của huyện ngày càng phát triển. Sau nửa năm triển khai Đề án, huyện đã thu hút trên 3.000 khách trong nước và quốc tế đến tham quan, trải nghiệm, tìm hiểu văn hóa của đồng bào dân tộc Mường.

Võ Miếu là xã miền núi của huyện Thanh Sơn luôn đi đầu trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Mường. Thực hiện Ðề án, trong thời gian qua, xã đã tập trung quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Mường; hình thành các sản phẩm du lịch, góp phần phát triển kinh tế qua hoạt động du lịch, đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nông thôn mới. Đồng thời, xã Võ Miếu đã triển khai các hoạt động sưu tầm, bảo quản theo quy trình nhằm bổ sung, bảo quản tốt các tài liệu, hiện vật quý hiếm là di sản văn hóa truyền thống điển hình của dân tộc Mường.

Ông Hà Văn Thạo, Bí thư Đảng ủy xã Võ Miếu cho biết, xã đã thành lập một câu lạc bộ cấp xã và 13 câu lạc bộ khu dân cư để giữ gìn bản sắc dân tộc Mường, trong đó tập trung gìn giữ các điệu hò vè, trang phục, các vật dụng sinh hoạt đời thường của người Mường. Hiện xã còn lưu giữ được 1 bộ cồng chiêng gồm 13 chiếc. Bên cạnh đó, Câu lạc bộ của xã cũng đã lưu giữ được gần 40 vật dụng sinh hoạt của người Mường, trong đó có nhiều dụng cụ có giá trị như mâm cổ, bát cổ, chiêng cổ… Xã Võ Miếu đã huy động nguồn lực của toàn xã hội cùng tham gia gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc Mường; qua đó tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và ý thức của người dân, trở thành phong trào sâu rộng, thường xuyên trong đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân trong xã.

Phó Chủ tịch UBND huyện Thanh Sơn Trần Ngọc Ðương chia sẻ, với mục đích bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị của văn hóa Mường, huyện Thanh Sơn xây dựng "Ðề án kiểm kê, sưu tầm, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường giai đoạn 2017- 2020, định hướng đến năm 2025", phấn đấu 100% số xã, thị trấn có câu lạc bộ văn hóa dân tộc Mường, xây dựng nhà sàn truyền thống ở trung tâm xã phục vụ sinh hoạt cộng đồng; từ 30% đến 50% số xã có nhà sàn, kiêm nhà trưng bày truyền thống tại trung tâm xã; 50% số khu dân cư có từ 50% đồng bào dân tộc Mường trở lên; các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông trên địa bàn huyện thành lập được đội văn hóa trình diễn văn hóa, khôi phục trang phục dân tộc Mường…

Theo ông Đương, việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc Mường trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói chung và huyện Thanh Sơn nói riêng còn gặp nhiều khó khăn vì lớp trẻ ngày nay thường đi học, đi làm ăn xa, không có nhiều người dành thời gian để tìm hiểu các giá trị văn hóa truyền thống, không thường xuyên sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Các hình thức diễn xướng được truyền từ đời này sang đời khác qua hình thức truyền miệng, hướng dẫn trực tiếp, ít có các văn bản ghi lại cụ thể nên còn khó khăn trong việc truyền dạy.

Phó Chủ tịch UBND huyện Thanh Sơn cho biết, để tiếp tục bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường, thời gian tới, huyện tập trung vào việc phát huy vai trò, uy tín của các già làng, trưởng thôn nhằm khơi dậy bản sắc đặc trưng, nét đẹp văn hóa dân tộc Mường. Trong các dịp lễ, Tết, nhất là ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc, tại các khu dân cư cần có kế hoạch tổ chức các lễ hội mang đậm nét văn hóa dân tộc Mường, qua đó các già làng, trưởng thôn có thể truyền đạt cho thế hệ trẻ những nét đẹp của dân tộc mình qua tiếng nói, trang phục, các làn điệu dân ca, hát sắc bùa, múa sạp, hay cách sử dụng cồng chiêng...; khuyến khích, cổ vũ các nghệ nhân có kế hoạch mở lớp truyền dạy về tiếng nói, về lời hát cồng, chiêng…

Ngoài ra, huyện Thanh Sơn tiếp tục triển khai các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mường như: xây dựng phòng trưng bày các di sản văn hóa truyền thống; tổ chức các chương trình liên hoan, hội thi, trò diễn dân gian, ngày hội văn hóa, thể thao các dân tộc thiểu số cấp xã, thị trấn; điều tra, khảo sát, thống kê và đánh giá thực tế, đầy đủ hơn các di sản văn hóa điển hình truyền thống của đồng bào dân tộc Mường. Trong đó, huyện chú trọng việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản như nhà sàn truyền thống, ngôn ngữ, các hoạt động diễn xướng dân gian, trang phục truyền thống, công cụ lao động sản suất... tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của người dân.


Tạ Văn Toàn

(TTXVN)
Dân tộc Mường Dân tộc Mường

Tên tự gọi: Mol (hoặc Mon, Moan, Mual).

Nhóm địa phương: Ao Tá (Âu Tá), Mọi Bi.

Dân số: 1.268.963 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ...

Hoạt động sản xuất: Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thuỷ lợi nhỏ.

Ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, chăn nuôi gia đình, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công nghiệp (dệt vải, đan lát...).

Ăn: Họ thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá tãi đều cho khỏi nát trước khi ăn. Rượu cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.

Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Ðặc biệt, phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.


Mặc: Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc đáo. Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy. Cạp váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.

Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Ðó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ chầu.

: Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối... ở tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Ðại bộ phận ở nhà sàn, kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, các công cụ sản xuất khác.

Làm nhà mới, khi dựng cột bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình 3 con cá to kẹp vào thanh nứa buộc lên cột bếp, ở cột cái của bếp còn đặt một quả bí xanh. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái. Ðêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không tắt.

Phương tiện vận chuyển: Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp thành thẳng đứng, có dây đeo qua trán hoặc qua vai để chuyên chở. Ðôi dậu, đòn gánh có mấu 2 đầu, đòn xóc cũng thường được sử dụng.

Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét vác vai từ bến nước về dựng bên vách để dùng dần.

Quan hệ xã hội: Quan hệ trong làng xóm với nhau chủ yếu là quan hệ láng giềng. Gia đình 2-3 thế hệ chiếm phổ biến. Con cái sinh ra lấy họ cha. Quyền con trai trưởng được coi trọng va con trai trong gia đình được thừa kế tài sản.

Cưới xin: Trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý nhau thì báo để gia đình chuẩn bị lễ cưới. Ðể dẫn đến đám cưới phải qua các bước: ướm hỏi (kháo thếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ xin cưới (nòm khảu), lễ cưới lần thứ nhất (ti cháu), lễ đón dâu (ti du). Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật sang nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón (gùi) cơm đồ chín (bằng khoảng 10 đấu gạo), trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, 2 cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô dì, chú bác.

Sinh đẻ: Khi người vợ sắp sinh con, người chồng phải chuẩn bị nhiều củi, làm một bếp riêng ở gian trong và quây phên nứa thành một buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ chuyển dạ đẻ, người chồng đi báo tin cho mẹ vợ và chị em họ hàng nội ngoại biết để đến nhà cùng nhau chờ đợi. Bà đỡ cắt rốn cho đứa trẻ bằng dao nứa lấy từ đầu chiếc dui trên mái nhà. Nếu là con trai thì dùng dao nứa mái nhà trước, nếu là con gái thì dùng dao nứa mái nhà sau. Cuống rốn của các con trong gia đình được đựng chung trong một ống nứa, họ tin rằng làm như thế lớn lên anh em sẽ thương yêu nhau.

Ngày sinh con, gia đình tổ chức ăn mừng, mời thầy mo cùng trừ mọi điều xấu hại đến mẹ con. Ðẻ được 3-7 ngày thường có nhiều anh em, bà con đến thăm hỏi tặng quà. Bà ngoại mừng cháu bao giờ cũng có vài vuông vải tự dệt, gia đình khá giả mừng thêm chiếc vòng bạc đeo cổ, anh em thân thích thì mừng gạo, mừng tiền.

Người đẻ thường ăn cơm nếp cẩm với lá tắc chiềng (loại lá thuốc chống được bệnh sài), uống nước nấu với các loại lá cây thuốc và trong thời gian cữ (7 đến 10 ngày) nhất là 3 ngày đầu luôn luôn phải sưởi bên bếp lửa. Trẻ sơ sinh nếu là trai thì được âu yếm gọi là lọ mạ (thóc giống), nếu là gái thì lại trìu mến gọi là cách tắc (rau cỏ). Thường thì trẻ khoảng 1 tuổi mới được đặt tên gọi chính thức.

Ma chay: Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gia thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.

Tang lễ do thầy mo chủ trì, dẫn dắt. Bên cạnh hình thức chịu tang của con trai, con gái như vẫn bình thường thấy ở người Việt, riêng con dâu, cháu dâu chịu tang cha mẹ, ông bà còn có bộ tang phục riêng gọi là bộ quạt ma.

Lịch: Lịch cổ truyền người Mường gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau để biết tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.

Người Mường ở Mường Bi có cách tính lịch khác với người Mường ở các nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới. Tháng giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và tháng 10 âm lịch.

Văn nghệ: Hát Xéc bùa (có nơi gọi Xắc bùa hay Khoá rác) được nhiều người ưa thích. Thường (có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường) là loại dân ca ca ngợi lao động, và các nét đẹp phong tục dân tộc. Bọ mẹng là hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca phổ biến.

Bên cạnh đó, người Mường còn có các thể loại hát khác như hát ru, hát đồng dao... Ðặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ ca. Ðó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.

Ngoài sáo, nhị, trống, kèn... thì cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc.

Chơi: Trò chơi của người Mường gần gũi với mọi đối tượng. Có những trò chơi được tổ chức chu đáo, công phu như: thi bắn nỏ, đánh đu, ném còn... Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được tổ chức linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đàn giản, tiện lợi như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh mảng, trò chăm chỉ, chằm chăn.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm