Bạc Liêu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần vùng đồng bào dân tộc Khmer

Chùa là trung tâm tín ngưỡng, văn hóa, giáo dục của cộng đồng của người Khmer. Ảnh: Tuấn Kiệt – TTXVN
Chùa là trung tâm tín ngưỡng, văn hóa, giáo dục của cộng đồng của người Khmer. Ảnh: Tuấn Kiệt – TTXVN

Với hơn 17.000 hộ, trên 74.000 nhân khẩu, người Khmer chiếm 7,8% dân số của tỉnh Bạc Liêu. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng các ngành, các cấp trong tỉnh luôn dành sự quan tâm, ưu tiên thực hiện đầy đủ, kịp thời các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước cho đồng bào dân tộc Khmer. Nhờ đó, đời sống của bà con không ngừng được nâng lên. Diện mạo phum sóc ngày càng khởi sắc, tạo nên sức sống mới ở các vùng có đông đồng bào dân tộc.

Bạc Liêu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần vùng đồng bào dân tộc Khmer ảnh 1Chùa là trung tâm tín ngưỡng, văn hóa, giáo dục của cộng đồng của người Khmer. Ảnh: Tuấn Kiệt – TTXVN

Phum sóc đổi thay từng ngày

Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân là một trong những xã có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Nơi đây có chùa Kosthum được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia năm 2008. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chùa từng che chở cán bộ, chiến sĩ và cũng là ngôi chùa có nhiều nhà sư tham gia chống giặc ngoại xâm. Chùa Kosthum được xem như một "địa chỉ đỏ" giáo dục lòng yêu nước cho thanh niên, đồng thời là niềm tự hào của đồng bào Khmer huyện Hồng Dân.

Những ngày này, người Khmer ở đây nô nức chuẩn bị đón Tết Chôl Chnăm Thmây cổ truyền của dân tộc. Ông Sơn Phết, nông dân ở đây tự hào cho biết, qua hơn 10 năm xây dựng nông thôn mới, diện mạo nông thôn xã Ninh Thạnh Lợi đổi thay rõ nét, nhất là về hạ tầng nông thôn. Nhiều tuyến đường bê tông đã được xây dựng nối liền các xóm ấp, ô tô đến tận các nơi. Nhờ vậy, việc đi lại của người dân dễ dàng, hàng hóa cũng không còn chịu cảnh bị ép giá như trước. Đường sá thông thoáng, nhà xây thay nhà lá mọc lên khắp phum sóc. Đồng bào dân tộc hiện nay không chỉ chăm chút cho vẻ đẹp cổ kính của các ngôi chùa Khmer- biểu tượng về văn hóa tín ngưỡng của mình, mà còn quan tâm đến nhà cửa, đường làng, ngõ xóm xanh sạch đẹp.

Bạc Liêu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần vùng đồng bào dân tộc Khmer ảnh 2Đường giao thông nông thôn trong vùng đồng bào dân tộc Khmer được bê tông hóa. Ảnh: Tuấn Kiệt – TTXVN

Không riêng vùng quê Ninh Thạnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu còn có nhiều vùng quê có đông đồng bào Khmer sinh sống đang thay da đổi thịt từng ngày. Kết quả này có được, bên cạnh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước còn là sự nỗ lực của đồng bào dân tộc. Tư duy đổi mới, biết làm giàu cho gia đình, làm đẹp cho xã hội, nâng cao ý thức, đồng hành cùng chính quyền xây dựng quê hương ngày thêm khởi sắc.

Tại thị xã Giá Rai, để thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, bà con không chỉ hiến đất làm đường, làm cầu, mà còn hưởng ứng xây dựng cảnh quan môi trường xanh - sạch - đẹp, thực hiện cải tạo vườn tạp trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao. Bà Thạch Thị Lan, xã Phong Tân, thị xã Giá Rai chia sẻ, nhờ sự quan tâm của Đảng, chính quyền địa phương, cuộc sống của người Khmer ở đây đã tốt lên rất nhiều, Nhà nào cũng có thu nhập từ nghề trồng lúa kết hợp chăn nuôi. Các phương tiện, trang thiết bị máy móc phục vụ đời sống sinh hoạt, ngày càng được nhiều gia đình mua sắm, chẳng khác mấy so với thành thị.

Nói về những chính sách đã đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc, ông Đỗ Minh Thắng, Chủ tịch UBND thị xã Giá Rai cho biết, ngoài các chủ trương chính sách chung, địa phương còn quan tâm triển khai nhiều chính sách đặc thù dành cho đồng bào dân tộc. Đặc biệt là ưu tiên xây dựng hạ tầng giao thông, tất cả khóm, ấp có đồng bào dân tộc Khmer sinh sống, thị xã đều hoàn thiện đường giao thông nông thôn thông thoáng, thuận lợi cho bà con đi lại cũng như giao thương hàng hóa.

Để nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc Khmer, tỉnh Bạc Liêu đã tập trung lồng ghép các nguồn lực từ các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và nhiều chương trình, đề án khác đã được Chính phủ phê duyệt thực hiện đối với vùng dân tộc và miền núi. Bên cạnh đó, tỉnh còn ban hành các chính sách và tuyên truyền, khuyến khích người dân tại cộng đồng dân cư phát huy nội lực để phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống. Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu Phan Thanh Duy, trung bình mỗi năm, tỉnh đầu tư hàng chục tỷ đồng xây dựng cơ sở hạ tầng, triển khai các dự án phát triển sản xuất giúp đồng bào Khmer nâng cao đời sống.

Bạc Liêu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần vùng đồng bào dân tộc Khmer ảnh 3Nông dân Khmer trồng dưa lưới phát triển kinh tế gia đình. Ảnh: Tuấn Kiệt – TTXVN

Bên cạnh đó, tỉnh dành sự quan tâm đặc biệt đối với những hộ có hoàn cảnh khó khăn thông qua các chương trình tín dụng ưu đãi. Theo thống kê, trong 5 năm qua, 1.135 hộ người Khmer nghèo được vay vốn hơn 14 tỷ đồng được đầu tư cho phát triển kinh tế. Nguồn vốn này đã góp phần tích cực trong công tác giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội ở địa phương. Nếu như cuối năm 2019, hộ nghèo dân tộc thiểu số còn 548 hộ (chiếm 17,76% tổng số hộ nghèo của tỉnh), đến nay còn 200 hộ (chiếm 5,83%).
Nâng cao đời sống tinh thần

Tỉnh Bạc Liêu quan tâm triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách về giáo dục, y tế, văn hóa, pháp luật, chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào các dân tộc thiểu số. Tính từ năm 2020 đến nay, tỉnh đã đưa gần 100 sinh viên là con em đồng bào dân tộc Khmer theo học tại các cơ sở giáo dục trình độ Đại học, Cao đẳng, Trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo chế độ cử tuyển. Bạc Liêu hiện có hơn 1.000 cán bộ, công chức, viên chức là người Khmer đang công tác tại nhiều cơ quan, đơn vị ở các cấp. Bên cạnh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các hộ gia đình Khmer cũng ngày càng tạo điều kiện để con em mình được học hành đến nơi đến chốn.

Cùng với việc chăm lo đời sống kinh tế, tỉnh Bạc Liêu luôn quan tâm nâng cao đời sống tinh thần, nhất là bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer. Toàn tỉnh hiện có 22 chùa Khmer. Với đồng bào dân tộc Khmer, ngôi chùa là trung tâm tín ngưỡng, văn hóa, giáo dục của cộng đồng. Chùa không chỉ là nơi đọc kinh, thực hiện nghi lễ của Phật giáo mà còn là nơi tổ chức dạy chữ Khmer, tổ chức lễ hội, truyền bá kinh nghiệm sản xuất, tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Theo Hòa thượng Hữu Hinh, Chủ tịch Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Bạc Liêu, các chùa Khmer trong tỉnh đều được chính quyền, mặt trận đoàn thể các cấp quan tâm tạo điều kiện tốt thực hiện các nghi thức tín ngưỡng truyền thống. Tỉnh đầu tư hàng chục tỷ đồng để mua sắm nhạc cụ ngũ âm, đóng mới và sửa chữa ghe ngo, đầu tư lò hỏa táng và xây dựng chánh điện cho các chùa. Ngoài ra, nhiều ngôi chùa, các Salatel (nơi để bà con Khmer sinh hoạt văn hóa cộng đồng) trong vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer được hỗ trợ sinh hoạt, phát huy các loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc.

Bạc Liêu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần vùng đồng bào dân tộc Khmer ảnh 4Nhiều gia đình Khmer có thu nhập ổn định nhờ áp dụng mô hình sản xuất lúa – cá. Ảnh: Tuấn Kiệt – TTXVN

Với việc triển khai đồng bộ, hiệu quả các chương trình, chính sách dân tộc, diện mạo vùng dân tộc Khmer của tỉnh Bạc Liêu ngày càng khởi sắc; đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao. Đây là cơ sở để tỉnh Bạc Liêu tiếp tục ưu tiên triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó tập trung phát triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng, triển khai xây dựng các công trình trọng điểm, thiết yếu. Cùng với đó là đẩy mạnh các chính sách phát triển giáo dục, y tế, văn hóa vùng dân tộc thiểu số; củng cố hệ thống chính trị cơ sở, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, đảm bảo quốc phòng, an ninh... Qua đó tạo nền tảng vững chắc để tiếp tục nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, trong đó có đồng bào Khmer.

Bà con ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, yên tâm lao động, sản xuất, phát triển kinh tế gia đình, xây dựng đời sống văn hóa, góp phần chung vào sự phát triển của địa phương ngày thêm giàu đẹp.

Tuấn Kiệt

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm