Vài nét về văn hóa và phong tục của người Kháng

Vài nét về văn hóa và phong tục của người Kháng
Người Kháng còn có tên gọi khác, đó là Xá Khao, Xá Xú, Xá Đơn, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá A Ỏ, Xá Bung, Quảng Lâm. Tuy nhiên, tên gọi chính thức của nhà nước ta đối với cộng đồng này là dân tộc Kháng – một trong 54 dân tộc của Việt Nam.
Người Kháng nói tiếng Kháng, là ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Khơ Mú, của ngữ tộc Môn-Khmer. Ngôn ngữ của họ khá giống với tiếng Xinh Mun, hay còn gọi là tiếng Puộc.

Ở nước ta, người Kháng cư trú chủ yếu ở Sơn La, Lai Châu và Điện Biên. Theo tổng điều tra dân số năm 1999, người Kháng có 10.272 người. Mười năm sau, 2009, lên tới 13.840 người. Tỷ lệ tăng như thế là vừa phải trong chủ trương kế hoạch hóa gia đình của nước ta. Nói Điện Biên, Sơn La, Lai Châu là địa bàn cư trú gốc của người Kháng, còn ngày nay, họ đã phân bố ở 25 tỉnh và thành phố do nhu cầu đời sống riêng tư, công việc làm ăn và công tác được phân công. Người Kháng còn cư trú ở bên Lào, các tỉnh sát biên giới, gần cận với các địa bàn gốc của họ tại Điện Biên, Sơn La, Lai Châu. Tại đây, họ cũng được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Phong-Kniang, Pong 3, Khaniang, Keniang, Lao Phong, với dân số khoảng 1.000 người.
 
Trang phục của thiếu nữ dân tộc Kháng.
Trang phục của thiếu nữ dân tộc Kháng.

Kinh tế chủ yếu của người Kháng là làm rẫy theo lối chọc lỗ tra hạt. Đây là phương thức làm nông nghiệp nương rẫy cổ xưa nhất có từ thời văn hóa Đông Sơn mà những dấu ấn của tục thờ thần Mặt trời, quan niệm về vũ trụ thông qua các bước chuyển động của người nông dân khi chọc lỗ tra hạt từ các nương rẫy đã toát lộ quan niệm ấy – điều mà tôi đã giới thiệu về người Mãng Ư, có lối canh tác tương đồng, cũng trong tạp chí này cách đây không lâu. Ngoài lối canh tác ấy, người Kháng còn làm ruộng nước theo phương thức cày bừa, gieo cấy trên các thửa ruộng bậc thang hẹp, nhưng không phổ biến. Người Kháng cũng chăn nuôi gia súc và gia cầm (gà, lợn, trâu) và họ cũng làm đồ đan lát (ghế, rổ, rá, nia, hòm, gùi), làm mộc (thuyền độc mộc kiểu đuôi én) được người Thái ưa dùng. Đó là những công việc nông nhàn, phục vụ cho đời sống tự túc, tự cấp trong các bản làng của họ. Nếu có chăng, không phải là tự túc, tự cấp thì thương mại của họ cũng là hàng đổi hàng. Họ trồng bông rồi đem bông đổi lấy vải và đồ dệt của người Thái – một dân tộc cư trú liền kề, có truyền thống về dệt thổ cẩm và làm chăn đệm bông (Phà Thái). Họ cũng đổi thuyền đuôi én cho người Thái để lấy những nông thổ sản của dân tộc này phục vụ cho đời sống thường nhật.

Ma chay của người Kháng cũng giống như nhiều dân tộc khác ở miền núi phía Tây Bắc nước ta, được biểu hiện rất rõ qua phong tục chôn cất. Người chết được chôn cất chu đáo, có nấm mộ và giỏ cơm, ống hút rượu, bát, đũa… Phía đầu mộ chôn cột cao 4 -5 mét, trên đỉnh có con chim gỗ, có treo chiếc áo của vợ hay chồng người chết.

Người Kháng có quan niệm mỗi con người có 5 hồn, hồn chính trên đầu và 4 hồn kia ở tứ chi. Khi chết, mỗi người biến thành “ma ngắt”, ngụ ở 5 nơi. Hồn chủ thành ma ở nhà, chỗ thờ tổ tiên là “ma ngắt nhá”, hồn tay phải trên thiên đàng là “ma ngắt kỷ”, hồn tay trái ở gốc cây làm quan tài là “ma ngắt hóm”, hồn chân phải ở nhà mồ là “ma ngắt môn”, hồn chân trái lên trời thành ma trời là “ma ngắt xừ rè”.
 
Nhà ở của người Kháng ở Sơn La.
Nhà ở của người Kháng ở Sơn La.

Quan niệm này của người Kháng xuất phát từ một tín ngưỡng rất xa xưa của nhiều dân tộc cư trú ở miền núi Đông Dương. Việc làm nhà mồ, chăm sóc người chết, giữ và bỏ mả, trồng cột gỗ (hoặc đá) tưởng niệm, hồn và vía ở đầu và tứ chi… là một chuỗi quan niệm của cư dân cổ xưa vùng núi bán đảo Đông Dương và xa hơn nữa. Quan niệm này có liên quan tới tín ngưỡng cự thạch (đá lớn) và tàn dư của tín ngưỡng ấy còn thấy ở nhiều dân tộc, trong đó, người Mường là đậm đặc hơn cả. Trên các hòn mồ bằng đá được trồng quanh các huyệt mộ ở các khu mộ ở nghĩa địa dòng họ quan lang Mường Hòa Bình, người ta còn thấy nhiều minh văn, bằng chữ Hán, trên đó nói rõ thân phận chủ nhân mộ, ngày tháng sinh và mất…, có niên đại cuối thế kỷ 17.

Hiện tượng ấy giống như bia mộ của người Kinh, nhưng từ trong sâu thẳm của tư duy tín ngưỡng Mường, những cột đá ấy là nơi trú ngụ của linh hồn. Và đá là nơi cư trú của linh hồn là một trong những tiêu chí tạo nên phức hợp của tín ngưỡng cự thạch. Thế nhưng tín ngưỡng thờ đá là khá phổ biến, trong đó có ở người Việt, song, việc dựng cột đá để tưởng niệm lại được nhiều người cho là của dân tộc Thái – những nhóm cư dân sống liền kề với người Mường, Kháng. Tiếp biến văn hóa từ người Thái (dựng cự thạch) và với  người Kinh (làm bia mộ), cùng với sự tiếp nối truyền thống thờ đá của người Việt cổ, đã tạo nên bản sắc tang ma Mường. Bản sắc ấy na ná với người Kháng qua những miêu tả trực quan và điều tra hồi cố nêu trên.
 
Độc đáo Lễ mừng cơm mới của dân tộc Kháng.
Độc đáo Lễ mừng cơm mới của dân tộc Kháng.

Trở lại với văn hóa vật thể của người Kháng qua ngôi nhà sàn của họ. Nhà người Kháng có 3 gian, 2 chái. Mái nhà sàn của người Kháng cũng tương tự như của người Mường, Thái Đen, có hình mu rùa, với 2 cửa ra vào ở hai đầu nhà, 2 cửa sổ ở 2 vách bên. Mỗi nhà có hai bếp lửa – một để nấu ăn hàng ngày và một để nấu đồ cúng tế khi bố mẹ, ông bà mất.

Cũng giống như nhiều dân tộc khác, ngày nay, trong đời sống vật chất và tinh thần của người Kháng, kể từ hôn nhân, cưới xin, ma chay, ăn mặc và nhà ở của người Kháng, đã có nhiều đổi thay với những đan xen và tiếp biến văn hóa với nhiều dân tộc khác. Đặc biệt với thời đại của truyền thông, giao thông đi lại thuận tiện hơn, sự đan xen, tiếp biến ấy còn đi xa hơn giới hạn vùng, tới cả đất nước và trên thế giới, do vậy, những nét văn hóa truyền thống văn hóa của người Kháng nói riêng và của nhiều dân tộc khác nói chung cũng đã bị phôi pha, dần mai một.
 
Theo thegioidisan.vn
Dân tộc Kháng Dân tộc Kháng

Tên tự gọi: Mơ Kháng.

Tên gọi khác: Háng, Brển, Xá.

Nhóm địa phương: Kháng Dẩng, Kháng Hoặc, Kháng Dón, Kháng Súa, Ma Háng, Bư Háng, Ma Háng Bẻng, Bư Háng Cọi...

Dân số: 13.840 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Họ nói thạo tiếng Thái.

Lịch sử: Người Kháng là một trong số các dân tộc cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc nước ta.

Hoạt động sản xuất: Nương rẫy là hình thái kinh tế chủ đạo với cách thức phát đốt, chọc lỗ tra hạt. Có thể phân thành 3 nhóm:

Nhóm sống du canh du cư: làm rẫy.

Nhóm du canh bán định cư: làm rẫy kết hợp làm ruộng.

Nhóm định canh định cư: làm ruộng kết hợp làm rẫy. Tập quán trồng lúa nếp kết hợp trồng ngô, sắn, vừng... Chăn nuôi khá phát triển: lợn, gà, vịt, trâu, bò. Nghề phụ nổi tiếng là đan lát đồ gia dụng (hòm, ghế mây, mây, gùi...) Người Kháng giỏi đóng và đi thuyền độc mộc, thuyền đuôi én. Thuyền của họ đóng được các dân tộc anh em ưa mua dùng.

Ăn: Người Kháng thích ăn xôi và các món có vị chua, cay như: cá ướp chua, dưa lá củ ráy ngứa, món hỗn hợp gồm lá lốt, thịt, ớt, tỏi, rau thơm hoà trộn, đồ chín. Tục uống bằng mũi (tu mui) là nét văn hóa độc đáo của họ. Người Kháng quen uống rượu trắng, rượu cần, hút thuốc lá và hút thuốc lào.

Mặc: Người Kháng ăn mặc giống người Thái.

: Nhà ở có 2 dạng: nhà tạm bợ và nhà kiên cố. Nhà sàn gồm 1 mái và 2 mái, không phủ nóc, không có chái, có cửa chính thông suốt từ đầu này sang đầu kia, thông với cầu thang nên xuống.

Phương tiện vận chuyển: Gùi có dây đeo qua trán, thuyền đuôi én.

Quan hệ xã hội: Nằm trong sự quản lý của các mường Thái trước đây, Người Kháng không có tổ chức xã hội riêng. Chức dịch cao nhất trong bản là: quan cai gần như Tạo bản người Thái. Trong các bản người Kháng đã có sự phân hoá giàu nghèo.

Tiểu gia đình phụ quyền chiếm ưu thế trong bản. Bên cạnh đó cũng tồn tại một số tàn dư của chế độ mẫu hệ: tục ở rể, vai trò ông cậu... Trưởng họ vẫn có vai trò nhất định.

Cưới xin: Ngày xưa, việc lấy vợ, lấy chồng của người Kháng vừa tự do vừa phải qua nhiều nghi thức. Sau bốn năm đêm tìm hiểu ngủ lại nhà người con gái, nếu đôi trai gái ưng ý nhau thì tiến hành ăn hỏi và rất nhiều nghi thức mà đôi trẻ và hai bên nhà trai nhà gái phải thực hiện. Sau 3 năm ở rể, đôi vợ chồng trẻ phải làm lễ ra mắt hai họ, nhà trai mới tổ chức đón dâu. Ðây là lễ quan trọng nhất.

Ma chay: Người Kháng có tục chia của cho người chết gồm: chăn, đệm, dao, bát, đĩa, hòm đựng quần áo, ống nước, giỏ xôi... và những gì khi còn sống người quá cố thường dùng. Tất cả những lễ vật này được đặt phía trên đầu mộ. ở phía đầu mộ còn chôn một cái cột cao, trên đó buộc treo một hình con chim bằng gỗ và một cái áo mà người chết thường mặc. Sau khi chôn xong, về đến nhà, anh em, bà con phải đứng dưới gầm sàn để ông cậu cắt một nhúm tóc bỏ vào bát nước lã đựng trứng, cá sấy khô rồi đem vứt ở vệ đường vào bãi tha ma để hồn người chết không về quấy rối con cháu, người thân.

Thờ cúng: Họ tin rằng con người có 5 hồn. Một hồn chính ở trên đầu bốn hồn ở tứ chi. Khi chết, hồn chính biến thành ma lành phù hộ con cháu, bốn hồn còn lại biến thành ma dữ hay quấy nhiễu vòi "ăn". Người ta còn tin nhiều loại ma khác như: ma suối, ma bản... Người Kháng thờ ma bố và có tục thờ ma mẹ. Việc cúng bố mẹ được tiến hành 3 năm một lần. Ðây là lễ vui nhất, gia đình thường mời anh em, bà con trong bản tới dự bữa cơm, sau đó xoè, múa thâu đêm.

Lễ tết: Người Kháng ăn tết Nguyên đán, tết cơm mới và thực hiện các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp nương rẫy.

Văn nghệ: Những làn điệu dân ca của người Kháng thường phản ánh đời sống sinh hoạt hàng ngày. Nhiều người biết hát các bài hát, áng thơ của người Thái, thuộc nhiều tục ngữ ca dao.

vna_potal_van_hoa_soi_duong_tai_hien_le_ta_on_cua_dan_toc_khang_6521105.jpeg
Tiết mục múa Tăng Bu của dân tộc Kháng tỉnh Điện Biên. Ảnh: Tuấn Đức - TTXVN

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm