Người Giẻ - Triêng ăn Tết Cha Kchah

Trong những ngày Tết Cha Kchah, khách mời và bà con trong làng có chung niềm vui.
Trong những ngày Tết Cha Kchah, khách mời và bà con trong làng có chung niềm vui.
Trên địa bàn tỉnh, người Giẻ Triêng sinh sống chủ yếu ở huyện Ngọc Hồi và huyện Đăk Glei (Kon Tum). Giống như Tết Nguyên đán của người Kinh, người Giẻ - Triêng cũng có tết cổ truyền của dân tộc mình – đó là Tết Cha Kchah.
Tết Cha Kchah là một nét đặc trưng trong sinh hoạt cộng đồng của người Giẻ - Triêng. Tết này có từ xa xưa, được tổ chức quy mô lớn hơn tất cả các lễ hội khác, cả về vật chất lẫn tinh thần, cả về tín ngưỡng lẫn sắc màu ý nghĩa.

Già làng A Biên, 85 tuổi (làng Bun Tôn, xã Đăk Blô, huyện Đăk Glei, Kon Tum) cho biết: Theo tiếng Giẻ - Triêng, Cha tức là ăn, Kchah tức là than. Bởi vậy, Tết Cha Kchah còn gọi là Tết ăn than hay là Tết đòng đòng. Gọi là ăn than bởi theo quan niệm của người Giẻ - Triêng thì trong ngày tết, ai dính nhiều tro đốt từ than nhất sẽ may mắn, thu hoạch mùa màng sẽ được nhiều hơn.
Ông A Lăng Xiêng, 72 tuổi (thôn Nông Nội, xã Đăk Nông, huyện Ngọc Hồi, Kon Tum) lý giải: Tết Cha Kchah không định được thời gian cụ thể như Tết Nguyên đán của người Kinh mà nó phụ thuộc vào thời tiết của từng năm. Khi nào cây đót (cây làm chổi quét nhà) có đòng đòng, tức là khi nó “mang thai”  và chuẩn bị trổ bông thì người Giẻ - Triêng ăn tết, thường thì vào khoảng cuối tháng 10 Âm lịch hàng năm.

Còn bà Y Bườm, 80 tuổi (làng Đăk Ga, xã Đăk Nhoong, huyện Đăk Glei, Kon Tum) kể: Theo truyền thống của người Giẻ - Triêng, khi mùa màng đã thu hoạch xong, để chuẩn bị ăn Tết Cha Kchah cổ truyền, đàn ông thường rủ nhau vào rừng đốt than. Họ lựa những cây chắc nhất để có than tốt. Khi đốt xong được bảo quản cẩn thận và mang về nhà chuẩn bị cho các lò rèn để rèn dụng cụ phát rẫy (cuốc, rựa, dao, xà gạt...) chuẩn bị cho một vụ rẫy mới năm sau.

Trong khi đàn ông đi đốt than thì những người phụ nữ Giẻ - Triêng cũng vào rừng cắt lấy đọt đòng đòng của cây đót mang về. Lúa mới trên nhà kho cũng được lấy xuống giã làm bánh. Gạo lúa mới được trộn với đót đòng đòng, sau khi giã xong thêm muối, ớt hoặc trộn với bột gạo để nấu canh. Cùng với các món thịt khô thú rừng, đây là những món ăn chính trong Tết Cha Kchah của người Giẻ-Triêng.
 
Trong những ngày Tết Cha Kchah, khách mời và bà con trong làng có chung niềm vui.
Trong những ngày Tết Cha Kchah, khách mời và bà con trong làng có chung niềm vui.

Để chuẩn bị cho những ngày tết này, ngay từ tháng 6 đến tháng 8, người Giẻ - Triêng lo ủ men làm rượu cần; chuẩn bị các loại thức ăn truyền thống như thịt dơi, thịt chuột, cheo, rau dớn, măng khô để phục vụ trong những ngày tết.

 Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế mỗi gia đình, của mỗi làng, việc tổ chức Tết Cha Kchah to nhỏ có khác nhau; có điều kiện khá giả thì thêm vài con gà, con heo, đôi khi có cả trâu để làm vật cúng tế hiến sinh. Mỗi làng tổ chức tết sớm hoặc muộn hơn vài ba ngày đều được, quan trọng là điều kiện đảm bảo cho tết được đầy đủ.

Là một người có nhiều năm đi điền dã nghiên cứu về các tập tục, lễ hội của dân tộc Giẻ - Triêng, ông Phan Văn Hoàng – Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Kon Tum cho biết: Trong thời gian đốt than và lấy đọt đòng đòng, người Giẻ - Triêng kiêng cữ 7 ngày. Thời gian này, khách không được vào làng bởi vì ở cổng làng có treo cây dứa gai làm dấu, báo hiệu sự kiêng cữ.

Trong những ngày này, buổi tối đàn ông có thể ngồi uống rượu với nhau từ những ghè rượu nhỏ nhưng tuyệt đối không được uống say. Đàn bà chuẩn bị gạo, nếp, lá gói bánh và làm những công việc nội trợ khác chuẩn bị thức ăn, đồ uống cho các ngày tết. Trong 7 ngày kiêng cữ, dân làng phải ăn chay.

Qua 7 ngày kiêng cữ thì bà con ăn tết. Già làng lấy máu các con vật hiến sinh (gà, heo, trâu) bôi vào cửa nhà của từng gia đình trong làng; lấy gan các con vật băm nhỏ, trộn với máu đem đến giọt nước của làng để cúng...Nghi thức này có ý nghĩa cầu mong Yàng phù hộ cho dân làng một năm an lành, hạnh phúc; mọi người luôn đoàn kết, thương yêu nhau; lúa bắp đầy kho, rượu ngon đầy ché; trâu bò, heo gà đầy đàn; trừ tà ma ác quỷ quấy phá dân làng...

Trong dịp tết này, người làng nấu xôi, vuốt lên cây giẻ khô rồi đốt lên thành tro. Hai loại tro này sẽ được hất tung lên cao và ai dính được nhiều tro nhất sẽ là người may mắn nhất. Mỗi người lớn sẽ cầm một nắm xôi ném lên mái nhà, nắm xôi của ai dính lên đó thì sang năm mới người ấy sẽ thu được nhiều gùi lúa.

Tết đến, mỗi gia đình góp một ít món canh đòng đòng, gan của các con vật hiến sinh được trộn lẫn vào nhau đem đến nhà rông để sau khi cúng xong mọi người cùng ăn uống vui chơi. Trong 3 ngày tết, nhà nào cũng được nhận phần và chia phần cho toàn thể cộng đồng. Đây là dịp để bà con uống rượu tại nhà rông thâu đêm suốt sáng và biểu diễn những tiết mục văn nghệ dân gian đặc sắc. Khi chiêng trống nổi lên, mọi người nối vòng xoang quanh bếp lửa bập bùng.

Những ngày ăn Tết Cha Kchah, con trai chưa vợ, con gái chưa chồng được hưởng niềm vui tột đỉnh, bởi đây cũng là mùa tỏ tình của con trai, con gái Giẻ - Triêng trong lúc nông nhàn. Họ được nằm chung một chiếu tại nhà rông để tự do tỏ tình mà không sợ sự dị nghị. Từ Tết Cha Kchah, nhiều cặp nam nữ Giẻ - Triêng nên vợ nên chồng, ăn nên làm ra trong sự đùm bọc, thương yêu của cả cộng đồng.

Qua 3 ngày tết vui nhộn, dân làng trở về với cuộc sống đời thường. Con trai biết rèn thì chuẩn bị lò bễ, số không biết rèn thì vào rừng săn bắn, một số già làng có kinh nghiệm được bà con tin tưởng giao trọng trách đi tìm đất phát rẫy mới. Phụ nữ đi lấy củi, chăm sóc hoa màu và làm các công việc nội trợ hàng ngày.baokontum.vn

Tết Cha Kchah là một truyền thống tốt đẹp của người Giẻ - Triêng, bà con dân làng gần gũi nhau hơn, giải tỏa mọi hiềm khích xảy ra giữa các gia đình trong cuộc sống hàng ngày, tăng thêm tình đoàn kết gắn bó, thương yêu, đùm bọc, cùng nhau tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, lao động, sản xuất, sinh hoạt và trong mọi mặt của cuộc sống.
Theo baokontum.vn
Dân tộc Gié-Triêng Dân tộc Gié-Triêng

Tên tự gọi: Mỗi nhóm có tên tự gọi riêng như Gié, Triêng, Ve, Bnoong.

Tên gọi khác: Cà Tang, Giang Rẫy.

Nhóm địa phương: Gié (Giẻ), Triêng (T’riêng), Ve, Bnoong (Mnoong). Nhóm Gié đông hơn cả.

Dân số: 50.962 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi với tiếng Xơ Ðăng, Ba Na. Giữa các nhóm tiếng nói có những sự khác nhau nhất định. Chữ viết hình thành trong thời kỳ trước năm 1975, cấu tạo bộ vần bằng chữ cái La-tinh.

Lịch sử: Người Gié-Triêng là cư dân gắn bó rất lâu đời ở vùng quanh quần sơn Ngọc Linh.

Hoạt động sản xuất: Họ làm rẫy là chính. Xưa trồng nhiều lúa nếp, nay lúa tẻ giữ vị trí chủ đạo, gồm nhiều giống khác nhau. Cách thức canh tác như ở các dân tộc miền núi khác trong vùng. Công cụ chủ yếu gồm rìu và dao quắm để phát, gậy đẽo nhọn đầu hoặc có mũi sắt để chọc lỗ khi gieo trỉa, cái cuốc con có cán là đoạn chạc cây để làm cỏ. Tất cả cây trồng đều ở rẫy, ngoài lúa còn có ngô, sắn, bo bo, kê, khoai lang, khoai môn, bầu bí, dưa, thuốc lá, bông, mía, chuối... Vật nuôi phổ biến là gà, lợn, chó, trâu, chỉ khi dùng vào việc cúng tế mới mổ thịt. Nguồn thức ăn kiếm được nhờ hái lượm, săn bắn và đánh bắt cá đóng vai trò quan trọng. Người Gié-Triêng có sở trường về đan lát, nghề dệt vải phát triển ở nhiều nơi, vùng Ðắc Pét có truyền thống đãi vàng sa khoáng và làm đồ gốm ở trình độ chưa biết dùng bàn xoay và chưa biết xây lò nung. Quan hệ hàng hoá trước kia dùng vật đổi vật, nay đã dùng tiền.

Ăn: Mỗi ngày người Gié-Triêng ăn 3 bữa (sáng, trưa, tối). Họ ưa thích các món nướng đối với cá, thịt. Canh cũng là món thường có trong các bữa cơm. Tập quán ăn bốc tồn tại lâu đời (nay việc dùng đũa, bát khá rộng rãi). Ðồ uống truyền thống là nước lã, rượu cần chế từ gạo, ngô, sắn, kê và rượu chế từ nước một loại cây họ dừa mọc hoang trên rừng. Nam nữ đều hút thuốc lá bằng tẩu.

: Tại huyện Ðắc Glây tỉnh Kon Tum có nhóm Gié và Triêng, tỉnh Quảng Nam có nhóm Bnoong ở huyện Phước Sơn và Trà My, nhóm T’riêng và Ve ở huyện Giằng. Hình thức nhà sàn dài gồm nhiều "bếp" là lối kiến trúc truyền thống phổ biến, đặc biệt ở vùng người Gié và Bnoong có khi cả làng ở trong một vài ngôi nhà. Về sau, nhà trệt đã xuất hiện. ở nhiều nơi, trừ nhóm Bnoong, trong làng thường dựng nhà công cộng cao to và đẹp. Tập quán bố trí nhà tạo thành một vòng ôm quanh khoảng trống ở giữa là một nét văn hoá lâu đời của họ ở Giằng và một số nơi ở Ðắc Glây.

Mặc: Theo nếp cổ truyền, nam quấn khố, ở trần, trời lạnh thì choàng tấm vải cho ấm người; nữ mặc áo, quấn váy, có nơi dùng loại váy ống dài để che luôn cả thân trên, từ ngực trở xuống. Phụ nữ ưa đeo nhiều trang sức: các loại vòng bạc, đồng, chuỗi cườm, đeo cổ, tay, chân, tai, phụ nữ các gia đình khá giả có cả hoa tai bằng nhà voi. Y phục theo kiểu người Việt hiện tại đã thâm nhập tận các làng xa xôi hẻo lánh.

Phương tiện vận chuyển: Người Gié-Triêng dùng gùi. Có những loại và cỡ gùi khác nhau: gùi đan thưa, đan dày, gùi đeo theo người hàng ngày, gùi để đồ tại nhà, gùi có hoa văn nan nhuộm đen, gùi không dùng nan nhuộm, gùi cho riêng nam giới...

Quan hệ xã hội: Dân làng thuộc các họ khác nhau, từng họ có truyền thuyết về cội nguồn của mình, có tên gọi và có kiêng cữ riêng. Xưa kia, có những họ của nữ, có những họ của nam. Quan hệ cộng đồng trong làng thường xuyên và khá chặt chẽ. "Già làng" có uy tín cao nhờ hiểu biết, nhiều kinh nghiệm, cũng thường là người có cộng lập làng. Xã hội cổ truyền có nhiều biểu hiện về tàn dư thời mẫu hệ và bước chuyển tiếp từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ.

Cưới xin: Trai gái tự tìm bạn đời, cha mẹ thường chấp thuận nếu không vi phạm tập tục. Việc cưới xin trải qua nhiều bước, bao giờ cũng có lễ kết gắn cô dâu chú rể với nhau (thông qua việc họ đưa cơm với gan gà cho nhau cùng ăn và uống chung bát rượu, hoặc có nơi họ trùm chung tấm chăn), và cô gái phải tự chuẩn bị 100 bó củi đẹp từ trước để đem đến nhà trai. Nhà trai thường tặng nhà gái đồ đan và nhận được của nhà gái những sản phẩm dệt. Trước kia, đôi vợ chồng cư trú luân phiên mỗi bên vài năm.

Sinh đẻ: Chồng phải làm lều ngoài rừng cho vợ đẻ. Sản phụ tự lo một mình trong sinh nở, sau 10 ngày mới được mang con về nhà. Ðứa bé được coi là thành viên của gia đình sau khi đã tiến hành một nghi lễ cúng cho nó gia nhập vào cộng đồng những người thân thuộc trong nhà.

Ma chay: Phong tục ở các nhóm không hoàn toàn giống nhau. Song nét chung là quan tài đẽo độc mộc, có nơi tạc hình đầu trâu trên đầu. Người chết được mai táng (có tài liệu viết xưa kia hoả táng); nhà mồ dựng không cầu kỳ, có rào xung quanh. Những đồ vật đem ra mộ cho người chết nếu là chiêng, ché thì đều đập thủng hoặc vỡ. Trong quá khứ, người ta từng biết đến tục chôn chung những người chết cách nhau không lâu trong gia đình vào một quan tài. Suốt 10 ngày khi làng có người mới chết, trước khi tang gia cúng "nhắc nhở" cho hồn người chết ở yên bãi mộ, dân làng không vào rừng, không đi làm xa nhà. Nghi thức đoạn tuyệt với mộ người chết thường được tổ chức vào dịp đầu năm tại cạnh ngôi mộ.

Thờ cúng: Người ta quan niệm có nhiều "thần linh" và mọi vật, cũng như con vật, con người đều có siêu linh ẩn trú. Các vị thần nước, thần trời (đồng nhất với sấm sét), thần mặt trời, thần đất, thần làng, thần làng, thần lúa, thần đá, thần cây đa... được người Gié-Triêng cầu cúng. Mỗi làng thường có vật "thiêng" như thứ bùa hộ mệnh, được cất dấu ở rừng và giữ bí mật với người ngoài. Dòng họ, gia đình cũng có vật "thiêng" để cầu mùa gắn với canh tác lúa. Ma người chết cũng được coi là một thế lực chi phối đối với cuộc sống. Liên quan đến thế giới siêu nhiên đó, có rất nhiều lễ thức tín ngưỡng theo tập tục.

Lễ tết: Mỗi khi cúng bái đều có hiến tế, mà máu con vật hiến tế là quan trọng nhất. Lễ trọng phải đâm trâu, và xa xưa có nơi phải cúng bằng máu người trong lễ thức đặc biệt liên quan đến thần lúa. Trong chu kỳ sản xuất hàng năm thường có lễ thức khi chọn đất rẫy, phát rẫy, gieo trỉa, khi hạn hay úng, khi mở đầu tuốt lúa, khi đưa lúa lên kho, khi được 100 gùi lúa trở lên và khi lấy thóc lần đầu về ăn. Gắn với chu kỳ đời người, có các lễ thức trong thời kỳ mang thai, trong và sau khi đẻ, khi đặt tên, khi bị đau ốm, khi cưa răng, trong việc cưới xin, khi chết đi. Tết dân tộc thường sớm hơn tết Nguyên đán, tổ chức theo làng.

Lịch: Người Gié-Triêng căn cứ vào chu kỳ mặt trăng để tính ngày. Theo đó, tên gọi mỗi ngày cụ thể trong tháng phần lớn đều được lặp lại, tuy một ngày ở nửa đầu và một ngày ở nửa cuối tháng. Mỗi năm 12 tháng. Từng tháng có những công việc trọng tâm nhất định.

Văn nghệ: Bộ nhạc cụ phong phú, quý giá và quan trọng nhất là cồng chiêng. Tuỳ nơi, người ta dùng 3 cồng với 7 hay 9 chiêng, hoặc 6 chiêng, hoặc 4 chiêng... Có khi cồng chiêng tấu cùng với trống, với ống nứa. Nguyên ống nứa cũng là loại nhạc cụ để thổi, vỗ, gõ. Các loại đàn sáo, khèn đều đơn giản, thông dụng trong đời sống âm nhạc. Người Gié-Triêng, cũng như các tộc khác, có những làn điệu dân ca cổ truyền và nhiều truyện cổ.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm