Luật tục bắt chồng qua tư tưởng mẫu hệ của người K'Ho

Luật tục bắt chồng qua tư tưởng mẫu hệ của người K'Ho
Núi rừng Tây Nguyên vốn mang trong mình nhiều bí ẩn. Xen giữa núi đồi điệp trùng là những nếp nhà sàn, những cổng trời cao vút. Lưng đèo gió núi, những loài hoa dại chen nhau khoe sắc, những thác nước hùng vĩ... Dừng chân bất chợt nơi vùng thâm cốc, ta mới nếm trọn cái hoang sơ trong trẻo của làng buôn, xa hẳn cái tấp nập ồn ã của phố thị, của đời sống công nghiệp bủa vây từng phút, từng giờ.
Tây Nguyên hiện hữu, là những đôi mắt đen láy trẻ thơ, e dè nép sau vách nứa, khúc khích cười, là những bắp ngô khô vàng ruộm hong giàn bếp, là lúc lỉu những vỏ bầu đựng nước lên rẫy, là ché, là chiêng, là chiếc gùi đầy rau rừng cá suối...

Giữa hơi thở đại ngàn, con người cũng hòa mình vào bức tranh kì vĩ ấy, làm nên cái mộc mạc, chân chất mà đậm đà bản sắc của chính dân tộc mình. Cái đời sống “tự cung tự cấp” vốn dĩ có nét quyến rũ đến mê hoặc những bước chân muốn tìm tòi khám phá, muốn đắm mình trong những hội hè tập tục đã trải qua thăng trầm thời gian, từ khởi thủy đến hiện tại...

Và, một trong những tập tục còn được truyền giữ, lưu dấu đến tận ngày nay, nó là dáng dấp, là minh chứng đậm nét nhất của chế độ mẫu hệ, chính là tục bắt chồng.

Nếu ở Bắc Tây Nguyên, mỗi độ hoa Pơ Lang rực đỏ núi rừng, con gái người dân tộc Jẻ - Triêng lại vào rừng chặt củi hứa hôn, chặt củi “bắt chồng”. Thì, ở Nam Tây Nguyên, tộc người K’Ho - tộc người thiểu số sống lâu đời, cư trú chủ yếu trên các vùng núi cao, cuộc sống tách biệt, lại giữ được luật tục “bắt chồng” lúc nửa đêm. Tư tưởng mẫu hệ in sâu vào suy nghĩ, họ đề cao quyền tự chủ của nữ giới kể cả việc lựa chọn bạn đời, vì vậy, trong tình yêu, hôn nhân, phụ nữ nắm quyền chủ động.

Tục bắt chồng của người Tây Nguyên cũng có nét tương đồng với tục cướp vợ của đồng bào miền núi phía Bắc, tuy nhiên, điểm khác biệt là phụ nữ đi bắt chồng chứ không phải đàn ông đi bắt vợ. Nét độc đáo này đã ghi dấu nhiều ấn tượng đẹp về văn hóa Tây Nguyên trong kí ức của du khách du xuân đến Tây Nguyên.

Cách đây từ rất lâu, người K’Ho đã chọn vùng đất cao nguyên Lang bian, huyện Lạc Dương(Lâm Đồng) với khí hậu ôn hòa, dịu mát quanh năm làm quê hương xứ sở. Dân tộc K’Ho còn có tên gọi khác là Cơ Ho, Cờ Ho, Kơ Ho... Là dân tộc với tập quán sống du canh du cư nên trong quá trình phát triển đã dần hình thành các nhánh K’Ho địa phương như: K’Ho Srê, K’Ho Lạch, K’Ho Chil, K’Ho Nộp (Tu Nốp), K’Ho Dòn... Người K’Ho nói tiếng K’Ho, ngôn ngữ thuộc ngữ chi Ba Na (Bahnaric), thuộc ngữ hệ Nam Á. Gần đây, người K’Ho mới có chữ viết theo mẫu tự La tinh. Theo truyền thống từ xưa, người K’Ho sinh sống chủ yếu bằng trồng trọt và chăn nuôi, ngoài ra còn săn bắt hái lượm, về sau phát triển thêm nghề thủ công như rèn, đan lát, dệt vải...

Theo quan niệm của người K’Ho, phụ nữ có quyền lực và được quý trọng hơn nam giới, phụ nữ là trụ cột trong gia đình và nắm quyền quyết định mọi việc. Tổ chức gia đình người K’Ho theo chế độ mẫu hệ, con cái tính theo dòng họ mẹ, con gái là người thừa kế...

Từ tháng giêng đến tháng tư, đó là khoảng thời gian khi mùa vụ đã xong, lúa đã gặt, cà phê đã hái, thiếu nữ K’Ho trong độ tuổi 16-17 lại làm đẹp, chỉnh trang để đi chơi cùng bè bạn trong buôn. Sau vài bận hẹn hò, “ưng bụng” một chàng trai nào đó, người còn gái sẽ về nhà đòi cha mẹ đến nhà người mình yêu đặt vấn đề “bắt chồng”. Một chàng trai có sức khỏe tốt, có nghề nghiệp thường được thách giá rất cao.

Các nghi thức cho đám hỏi hoặc đám cưới đều được tiến hành vào ban đêm, khi mặt trời đã xuống núi, bởi người K’Ho quan niệm rằng khi bóng tối bao trùm lên núi đồi, người ta sẽ tránh được các điều tiếng gây bất lợi cho đôi trai gái.
 
Múa hát là phần không thể thiếu được trong các Lễ hội, đám cưới truyền thống của người K'Ho. Ảnh: TTXVN
Múa hát là phần không thể thiếu được trong các Lễ hội, đám cưới truyền thống của người K'Ho. Ảnh: TTXVN

Tập tục của người K’Ho, mọi lễ vật cho cuộc hôn phối đều do nhà gái lo liệu từ lễ hỏi cho tới lễ cưới và toàn bộ chi phí cho đám cưới. Tục thách cưới cũng xuất phát từ xa xưa và tồn tại đến ngày nay. Thông thường, khi được người con gái đến dạm hỏi cưới, nếu nhà trai đồng ý họ sẽ đưa ra một mức giá. Bà Cơ Liêng K’Jat xã Lát (huyện Lạc Dương) cho hay: “Bằng trâu, bằng heo gà hiện nay đã hạn chế, không có vàng sẽ đòi bằng tiền từ 30 - 50 triệu, nếu có của hồi môn người ta mới cho lấy chồng, nếu không có, người con gái sẽ chịu thiệt thòi lắm...”. Như vậy, hủ tục thách cưới của buôn làng trên cao nguyên Lang bian vô tình đã kéo theo những hệ lụy, những cô gái nghèo đành ngậm ngùi chịu cảnh sống đơn chiếc, những gia đình nghèo phải gồng gánh nợ nần nếu muốn kiếm tấm chồng cho con gái... Thách cưới của nhà trai đã thành gánh nặng, thành nỗi lo của biết bao cô gái nghèo miền sơn cước.

Ngày nay, tục bắt chồng của người thiếu nữ K’Ho ít nhiều đã thay đổi theo thời gian. Tiếp xúc với các luồng văn hóa, hòa nhập, sống hài hòa với các dân tộc khác, trong đó có dân tộc Kinh đã làm nhận thức của người K’Ho đổi thay theo hướng tích cực, họ đã có cái nhìn thoáng hơn về luật tục hôn nhân.

Nếu như trước kia, tục nối dây được xem như một điều bất khả trong hôn nhân của dân tộc K’Ho - nghĩa là khi một trong hai người, vợ hoặc chồng qua đời, người còn sống bắt buộc phải lấy chị/em vợ hoặc anh/em chồng để giữ được dòng máu dòng tộc... Thì ngày nay, hôn nhân đã vượt ra khỏi ranh giới họ hàng, buôn làng, nam nữ được phép kết duyên trên cơ sở tình yêu, được tự do chọn lựa bạn đời... Và từ đó, các nghi thức rườm rà gây bất lợi cho hai bên gia đình đã dần dần được người K’Ho loại bỏ. Đây là sự khởi sắc đáng mừng trong văn hóa tinh thần của người K’Ho, nhất là người phụ nữ.

Ông Cil Ha Tư (cán bộ tư pháp xã Tà Nung, TP Đà Lạt) so sánh: “Nếu như ngày xưa, lễ vật của hồi môn gồm 1 đồng la (chiêng) có trị giá 1-2 con trâu, cườm, tô, choé... thì ngày nay, tập tục thách cưới của nhà trai vẫn duy trì, nhưng tùy theo điều kiện của nhà gái. Của hồi môn có thể cho hẹn khất, nhưng mâm cỗ vẫn phải đàng hoàng...”.

Xưa và nay, điều dễ nhận thấy nhất là người K’Ho đã không còn gò bó trong luật tục, hình thức có thể thay đổi, nhưng bản sắc cơ bản vẫn được giữ gìn.

Ẩn dưới những tán rừng già, dưới chân núi, đời sống sinh hoạt của người đồng bào vẫn thấm đẫm linh khí đất trời, để từ khởi nguyên, đã nối dài đến tận hiện tại với chế độ mẫu hệ - trân trọng người phụ nữ - hồn cốt của gia đình, quyền lực gia đình nằm trong tay người phụ nữ. Đời sống tinh thần, đời sống tâm linh kì bí của từng dân tộc Tây Nguyên vẫn sẽ mãi là câu chuyện dài... Và câu chuyện về tục bắt chồng của thiếu nữ K’Ho trên cao nguyên Lang bian vẫn như những giai thoại sống động hấp dẫn, để già làng kể cho con cháu mai sau bên ánh lửa nhà sàn bập bùng, thơm nồng mùi khói bếp - mùi hoài niệm của năm tháng xa xưa...
Theo baolamdong.vn
Dân tộc Cơ Ho Dân tộc Cơ Ho

Tên tự gọi: Cơ Ho.

Nhóm địa phương: Xrê, Nộp (Tu nốp), Cơ Dòn, Chil, Lát (Lách), Tơ Ring (Tring).

Dân số: 166.112 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Người Cơ Ho có lịch sử cư trú lâu đời ở Tây Nguyên.

Hoạt động sản xuất: Trừ nhóm Xrê làm ruộng nước theo đúng tên gọi của nó (Xrê - ruộng nước), còn các nhóm khác làm rẫy (mir) du canh theo chu kỳ. Nhìn chung kỹ thuật và công cụ làm rẫy của người Cơ Ho không khác với các tộc người khác ở Tây Nguyên nhưng riêng nhóm Chil để chọc lỗ tra hạt còn dùng một dụng cụ khác: P'hal. P'hal có cán dài bằng gỗ, lưỡi dẹp bằng sắt khoảng 28 cm và rộng khoảng 3-4cm, được dùng trong trường hợp một người vừa chọc lỗ, vừa tra hạt. Ở vùng người Xrê, công cụ làm đất đặc trưng là chiếc cày (ngal) bằng gỗ, đế bằng, lưỡi gỗ (sau này là lưỡi sắt) và cái bừa răng gỗ (Sơkam).

Cày, bừa và cả Kơr (dụng cụ để chang bằng mặt ruộng) đều do hai trâu kéo. Lúa là cây lương thực chính và là cây trồng chủ yếu nhưng thông thường trên một đoạn rẫy người ta còn trồng lẫn cả ngô, sắn, bầu, bí, mướp, đậu... Người Cơ Ho chăn nuôi theo lối thủ công. Từ khi làm ruộng, họ nuôi trâu bò để lấy sức kéo, còn hầu hết các súc vật nuôi để hiến tế trong các lễ nghi.

Nghề đan lát và rèn hầu như gia đình nào cũng có người làm nhưng nghề dệt chỉ phổ biến ở nhóm Chil.

Săn bắn, đánh cá, hái lượm, lâm thổ sản vẫn rất phổ biến.

Ăn: Các gia đình thường ăn 3 bữa. Trước kia, cơm canh đều nấu trong ống nước và sau này mới được nấu trong nồi đất, nồi đồng và nồi gang. Các món được chế biến khô cho phù hợp với thói quen ăn bốc. Canh là một món rau trộn với tấm thường bỏ thêm ớt, muối, thịt, cá được kho, luộc hay nấu với cây chuối non.

Thức uống là nước suối được đựng trong các trái bầu, trong các ghè. Rượu cần (tơrnơm) rất được ưa chuộng trong các lễ tiệc, hội hè, được chế biến từ gạo, ngô, sắn... trộn với các men làm từ các cây rừng. Thuốc hút là những lá thuốc phơi khô quấn lại được nhiều người ưa dùng.

Mặc: Ðàn ông đóng khố, phụ nữ mặc váy ngắn. Khố là một miếng vải dài 1,5 đến 2 m và rộng, có hoa văn theo dải dọc. Váy là một tấm vải quấn quanh người một vòng và giắt cạp. Nền váy màu đen trên đó có những dải hoa văn màu trắng viền dọc thân váy. Khi trời lạnh, người ta quấn thêm chiếc chăn (ùi). Trang sức là những vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai.

: Người Cơ Ho cư trú chủ yếu ở Lâm Ðồng. Họ ở nhà sàn dài, hai mái uốn lợp tranh, có vách phên nghiêng ra ngoài nẹp tranh để chống lạnh và phía trước cửa có cầu thang lên xuống. Vào nhà, trên bức vách phía sau đối diện với cửa ra vào là hàng ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt của gia đình (ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách) đều diễn ra xung quanh bếp lửa.

Quan hệ xã hội: Làng (bon) là một công xã nông thôn còn mang nặng những dấu vết của công xã thị tộc mẫu hệ. Ðứng đầu một làng là chủ làng (Kuang bon). Ở những nơi dân cư tập trung đông đúc, hình thành một tổ chức liên minh tự nguyện giữa các làng và đứng đầu liên minh gọi là M’đrông. Người Cơ Ho vẫn tồn tại 2 hình thức gia đình: gia đình lớn và gia đình nhỏ. Tuy nhiên, gia đình lớn hiện nay đương trong quá trình tan rã và hình thức gia đình nhỏ ngày càng trở nên phổ biến, nhất là những vùng trù phú, ven các đường quốc lộ, gần thị trấn, thị xã... Tổ chức gia đình theo chế độ mẫu hệ. Người đàn bà đóng vai trò chủ động hôn nhân; sau hôn lễ, người con trai về ở bên nhà vợ; con cái tính dòng họ theo phía mẹ... Nam nữ thanh niên Cơ Ho xây dựng gia đình khá sớm (nữ thường 16 - 17 tuổi; nam từ 18 - 20 tuổi) và đó chính là một trong những nguyên nhân làm cho mức sinh của người Cơ Ho khá cao, bình quân một phụ nữ sinh khoảng 5 - 6 con.

Thờ cúng: Người Cơ Ho tin rằng mọi mặt đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định và trong quan niệm của họ có một bên là thần thánh (Yang) luôn luôn phù hộ cho con người và ngược lại cũng có một bên là ma quỷ (Chà) thường hay gây ra những tai hoạ cho nên hầu như làm bất cứ việc gì hay có chuyện gì (làm ruộng, cưới xin, tang ma, ốm đau...) người Cơ Ho thường phải cúng viếng để cầu xin. Người ta tin rằng, các vị thần rất thích ăn thịt và uống rượu nhưng tuỳ theo tầm quan trọng của buổi lễ mà người ta tế sống trâu, heo, dê hoặc gà cùng với rượu.

Trong số các lễ nghi của người Cơ Ho, những lễ nghi liên quan đến từng công việc làm rẫy, làm ruộng như gieo lúa, khi lúa trổ bông, đạp lúa và cho lúa vào kho là những lễ nghi quan trọng nhất và được tiến hành thường xuyên hơn.

Bàn thờ (nao) thường đặt ở chỗ trang trọng và tôn nghiêm nhất trong nhà. Bàn thờ xưa làm bằng ván gỗ có chạm trổ hầu như không còn nữa, giờ đây người ra còn nhận ra là chỗ thờ cúng nhờ những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào.

Học: Vào đầu thế kỷ XX, chữ Cơ Ho được xây dựng bằng hệ thống chữ la tinh. Mặc dù đã được cải tiến nhiều lần, được dùng để dạy trong một số trường học, nhưng loại chữ này chưa phổ biến sâu rộng.

Văn nghệ: Vốn văn học nghệ thuật dân gian Cơ Ho rất phong phú. Thơ ca giàu trữ tình và đầy nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lễ hội. Các nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr)... có khả năng hoà âm với lời ca hoặc độc tấu.

Lễ tết: Hàng năm, khi mùa màng đã thu hoạch xong (thường là tháng 12 dương lịch), người Cơ Ho tổ chức ăn Tết. Thường thường, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để làng tổ chức lễ đâm trâu trong dịp này. Lễ được tổ chức ở ngoài trời trước nhà chủ hiến tế, chủ làng hay ở mảnh đất rộng, bằng, cao ráo của làng, với cây nêu được trang trí sặc sỡ, mọi người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu được bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 - 10 ngày. Trong các ngày Tết, dân làng đến chung vui với từng gia đình. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các công việc cần làm như: làm nhà, chuyển làng...

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm