Độc đáo Tết té nước của dân tộc Lào ở Điện Biên

Độc đáo Tết té nước của dân tộc Lào ở Điện Biên
Ngày 13/4, tại bản Na Sang 1, xã Núa Ngam, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, cộng đồng dân tộc Lào (1 trong 19 cộng đồng dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh Điện Biên) đã tổ chức Tết truyền thống - Tết té nước (Bun Huột Nặm) thu hút hàng nghìn người dân trên địa bàn và du khách thập phương về dự. 
Nghi thức đi xin nước, ban phúc cho người dân tại các hộ gia đình. Ảnh: TTXVN
Nghi thức đi xin nước, ban phúc cho người dân
tại các hộ gia đình. Ảnh: TTXVN

Tết té nước gắn với quá trình định cư, lập bản, được người Lào ở bản Na Sang 1 gìn giữ, bảo tồn từ hàng chục năm qua. Từ năm 2015, Tết té nước đã được các cấp chính quyền địa phương và nhân dân trong bản phục dựng nguyên bản, tổ chức vào đúng thời điểm Tết truyền thống của người Lào nhằm góp phần tái hiện lại yếu tố văn hóa truyền thống và trở thành nếp sống, phong tục của người dân nơi đây. Tết té nước với các hoạt động chính là cúng bản, cúng tổ tiên, ông bà nhưng cốt lõi là tống tiễn mùa khô, tẩy rửa những điều xui xẻo trong năm cũ cho bản làng, cầu mong mưa thuận gió hòa, vạn vật sinh sôi, phát triển, mùa màng bội thu, bản làng bình yên, mọi người dồi dào sức khỏe, gặp nhiều may mắn trong năm tiếp theo. Dịp diễn ra Tết té nước, nhân dân trong bản sẽ có cơ hội sáng tạo, thể hiện những trò chơi, những điệu dân vũ truyền thống trong không gian văn hóa bản địa của dân tộc mình.

Ngay từ sáng sớm, khi cộng đồng dân tộc Lào ở bản Na Sang 1 và du khách trong, ngoài tỉnh tề tựu đông đủ tại bãi đất rộng ngay cạnh suối Nậm Núa thì các nghi thức, lễ thức cúng tế thần linh của phần Lễ sẽ diễn ra. Trong suốt quá trình làm lễ, bà mo, già làng, trưởng bản và người uy tín cùng đội nghi lễ sẽ cầu khấn, vẩy nước thơm và buộc chỉ cổ tay cho mọi người để cầu may, chúc phúc cho một năm mới bình an, không ai ốm đau bệnh tật, mùa màng bội thu, vạn vật sinh sôi, phát triển.

Trong phần hội, sẽ diễn ra những hoạt động bắt nguồn từ cuộc sống lao động sản xuất, chinh phục tự nhiên, chống thiên tai địch họa, bảo vệ mùa màng, bảo vệ cuộc sống yên vui, hạnh phúc của cộng đồng như: Tấu phắc sá - táu lasa (rùa ấp trứng), xưa khốp mu (hổ vồ lợn), ngù kin khiết (rắn bắt ngóe), phăn viêng (múa bắt chân bắt đầu), Pít mắc tanh (hái dưa chín)... Đặc biệt là hoạt động nghi thức xin nước mưa (só nặm phạ phốn), xin ban lộc diễn ra tại mỗi gia đình thu hút hàng trăm người trong không khí vui tươi, phấn khởi.

Sau nghi thức dâng tế lễ vật, cúng mời thần suối hưởng lễ cùng bản làng người dân và du khách sẽ cùng nhau té nước suối lên người nhau để cầu mong thời tiết diễn biến trong năm mới thuận lợi, bản làng gặp được nhiều may mắn hơn. 
 
Cộng đồng dân tộc Lào và du khách thập phương sôi nổi trong hoạt động Té nước tại suối Nậm Núa - chạy dọc bản làng để cầu may và chúc cho nhau những điều may mắn. Ảnh: TTXVN
Cộng đồng dân tộc Lào và du khách thập phương sôi nổi trong hoạt động Té nước tại suối Nậm Núa - chạy dọc bản làng để cầu may và chúc cho nhau những điều may mắn. Ảnh: TTXVN

Bà mo Lường Sao May, của bản Na Sang 1, xã Núa Ngam, huyện Điện Biên cho biết: Tết té nước là một niềm tự hào của người dân tộc Lào bản Na Sang. Thông qua Tết té nước, cộng đồng dân bản chúng tôi muốn quảng bá đến mọi cộng đồng dân tộc trong tỉnh và du khách gần xa biết đến mảnh đất, thiên nhiên vùng đất nơi chúng tôi sinh sống, đặc biệt là nét đẹp đẹp nét văn hóa độc đáo của cộng đồng người Lào chúng tôi.

Bà Phạm Minh Châu, Trưởng Phòng Văn hóa Thông tin huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên cho biết: Tết té nước đã góp phần khẳng định quá trình tồn tại, phát triển của cộng đồng dân tộc Lào trên địa bàn, gắn với tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng, mang đậm triết lý nhân sinh. Đến bản Na Sang vào dịp diễn ra Tết té nước, du khách sẽ được trải nghiệm, hòa mình trong những nghi thức truyền thống của không gian văn hóa đậm sắc màu dân gian của các trò chơi. Lễ té nước của dân tộc Lào là tiềm năng để phát triển du lịch của huyện Điện Biên và tỉnh Điện Biên.

Tết té nước của người Lào ở bản Na Sang 1, xã Núa Ngam, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2017. Với Tết té nước, đến nay, tỉnh Điện Biên đã có 8 di sản được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Hải An
(TTXVN)
Dân tộc Lào Dân tộc Lào

Tên tự gọi: Thay, Thay Duồn, Thay Nhuồn.

Tên gọi khác: Phu Thay, Phu Lào.

Nhóm địa phương: Lào Bốc (Lào Cạn) và Lào Nọi (Lào Nhỏ).

Dân số: 14.928 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Lào có nguồn gốc di cư từ Lào sang.

Hoạt động sản xuất: Người Lào làm ruộng nước với kỹ thuật dẫn thuỷ nhập điền hợp lý. Ngoài ra họ còn làm nương, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tiểu thủ công nghiệp gia đình của dân tộc đặc biệt phát triển. Họ làm gốm bằng bàn xoay với các sản phẩm như chum vại, vò, ché, nồi với chất lượng tốt. Nghề dệt thổ cẩm tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao, thể hiện thẩm mỹ tinh tế. Nghề rèn, nghề chạm bạc... cũng góp phần thu nhập đáng kể cho nhiều gia đình. Hái lượm còn có vai trò nhất định đối với đời sống kinh tế của người Lào.

Ăn: Người Lào ăn nếp là chính. Về thực phẩm họ ưa ăn các món chế biến từ cá; đặc biệt có món Pàđẹc (cá ướp) rất nổi tiếng.

Mặc: Phụ nữ Lào mặc váy thắt ngang ngực, buông ngang tầm bắp chân. Gấu váy thêu hoa văn màu tươi sáng rực rỡ. áo nữ ngắn, để hở phần ngực trên. Chiếc trâm bạc cài tóc hay khăn piêu đội đầu của phụ nữ Lào cũng được chạm khắc hoặc thêu thùa khéo léo. Nam phục Lào có nhiều nét tương đồng với người Thái.

: Người Lào cư trú xen kẽ với người Thái, người Lự, người Khơ Mú ở các huyện Ðiện Biên, Phong Thổ (Lai Châu) và Sông Mã (Sơn La). Họ ở nhà sàn, lòng rộng, thoáng đãng, cột kèo được chạm khắc tinh vi. Mái nhà thường kéo dài tạo nên hiên để đặt khung cửi và các công cụ làm vải.

Phương tiện vận chuyển: Người Lào quen gùi, gánh đôi dậu, đặc biệt giỏi đi thuyền trên sông, ở một số nơi họ còn sử dụng ngựa thồ.

Quan hệ xã hội: Trước kia xã hội người Lào tuy phụ thuộc hệ thống tổ chức hành chính của phong kiến Thái nhưng được tự quản ở cấp bản. Mỗi bản có một người đứng đầu gọi là chẩu bản đại diện cho lợi ích cộng đồng. Thiết chế tự quản chi phối nhiều tới hoạt động kinh tế, đời sống tâm linh và đạo đức truyền thống.

Cũng như người Thái, người Lào quan niệm mỗi người có ba quan hệ họ hàng chính: ải Noọng - Lung Ta - Dinh Xao. Các dòng họ đều có tục kiêng cấm liên quan đến tô tem giáo.

Cưới xin: Theo nguyên tắc hôn nhân thuận chiều. Con trai phía họ Dinh Xao được phép và khuyến khích lấy con gái phía họ Lung Ta, nhưng nghiêm cấm lấy ngược lại. Không có tục hôn nhân anh em chồng hoặc hôn nhân chị em vợ. Gia đình của người Lào dù lớn hay nhỏ mang tính phụ quyền rõ rệt mặc dầu người phụ nữ vẫn được đề cao. Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên nhà chồng. Gia đình của họ thường bền vững, ít có trường hợp đa thê, ngoại tình hay ly dị. Quan hệ trong mỗi nhà thường hoà hiếu, con cái được chăm sóc như nhau không phân biệt trai gái.

Sinh đẻ: Phụ nữ mang thai và sinh đẻ được chăm sóc và quan tâm chu đáo. Họ cũng phải tuân theo nhiều kiêng cấm trong ăn uống cũng như hành vi ứng xử. Trẻ sơ sinh được đặt tên sau một tháng.

Ma chay: Tục thiêu xác chỉ thực hiện đối với người đứng đầu bản (chầu bản). Các trường hợp khác đều thổ táng. Lễ thiêu xác chầu bản do chẩu hua (ông sư) chủ trì với các nghi thức Phật giáo đã được hoà nhập và cải biến hợp với truyền thống tộc người. Người Lào không khóc trong các đám tang bởi họ quan niệm sự chết chỉ là quá trình thay đổi thế giới.

Lễ tết: Người Lào theo Phật lịch và ăn tết vào tháng 4 âm lịch hàng năm (Bun Pi May). Hàng tháng, vào ngày rằm và ba mươi có tục dâng lễ lên tháp theo nghi thức Phật giáo, lễ vật chỉ có hoa quả. Họ cũng có nhiều nghi thức tín ngưỡng khác liên quan đến nông nghiệp như lễ cầu mưa (Xo Nặm Phôn) hay có tục ăn cơm mới.

Thờ cúng: Mỗi gia đình đều có nơi thờ tổ tiên. Mỗi bản làng có một ông thầy cúng (món) chuyên việc cúng khi có người đau ốm. Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa và xã hội người Lào.

Học: Người Lào có chữ theo mẫu tự Sanscrit. Hiện nay vẫn còn nhiều sách viết trên lá cọ do các thầy cúng (mo lắm) giữ. Xưa, con trai đều phải kinh qua học sách Phật từ 3 đến 7 năm. Học xong thầy đặt cho học trò là Siêng nghĩa là người đã giỏi chữ.

Văn nghệ: Người Lào có vốn văn học dân gian phong phú với nhiều huyền thoại, cổ tích, dân ca... Phụ nữ Lào không chỉ hát hay mà còn rất giỏi các điệu dân vũ. Do sống xen kẽ lâu đời với người Thái, văn nghệ dân gian Lào ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hoá Thái. Chính điều đó đã làm cho văn nghệ của họ thêm phong phú.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm