Độc đáo làn điệu kà tơm – tà lềnh của đồng bào Chứt

Độc đáo làn điệu kà tơm – tà lềnh của đồng bào Chứt
Với đồng bào Chứt (nhóm Mã Liềng ở bản Rào Tre, xã Hương Liên, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh) thì sinh hoạt dân ca là món ăn tinh thần không thể thiếu và phổ biến nhất là làn điệu kà tơm – tà lềnh.
Làn điệu kà tơm – tà lềnh là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian có từ lâu đời của các dân tộc. Trong kho tàng văn hóa dân gian của người Mã Liềng, những làn điệu dân ca với nội dung phong phú, được sử dụng trong nhiều khung cảnh, với lời ca mộc mạc đã phản ánh về cuộc sống lao động sản xuất, về tình yêu đôi lứa và về những sinh hoạt hàng ngày của đồng bào như đi nương rẫy, đi rừng, mò cua bắt ốc và các dịp lễ tết, cưới hỏi…

Dân ca gắn bó một cách tự nhiên với sinh hoạt hàng ngày của đồng bào. Nội dung bài hát có thể sáng tác tùy hứng theo điệu “Kà tơm - tà lênh” rất được đồng bào ưa thích. Làn điệu kà tơm – tà lênh nghĩa là con trâu đi cày (kà tơm là con trâu, tà lênh là cày đất ). Điệu này bắt đầu bằng điệp khúc là “kà tơm – tà lênh ” hai lần và sau đó là nội dung bài hát. Làn điệu này thường dùng để hát đối nam nữ trong lao động sản xuất, trong vui chơi (cũng có thể hát một mình hoặc hát hai nam, hai nữ).

Điệu hát này bắt nguồn từ tiếng gọi nhau đi làm lúc sáng sớm, hoặc theo đồng bào trước đây còn có điệu “kà răng - tà nên” nghĩa là chiều về trên đỉnh núi, là tiếng gọi nhau đi về lúc trời đã chiều. Điệu dân ca này không chỉ tạo nên không khí vui nhộn, hăng say trong lao động sản xuất, mà thông qua đó các chàng trai, cô gái còn gửi gắm tâm tình cho nhau:
“Kà tơm - tà lênh, kà tơm - tà lênh, bởi chỉ mới chiềng chiêng kdang, kói, tihal ktoi, bới chị mới, kà tơm-tà lênh, kà tơm-tà lênh che phướng l nơ, phi co chô, che hel vấng tược…”. Tạm dịch là (kà tơm-tà lênh)2- O nàng ơi, mang kdâng, mang kói đi hái trầu, O có đi không, O này ơi (Kà tơm-tà lênh)2 em cũng muốn đi, mà trầu có chỗ, em sợ, em hái không được”. Điệu Kà tơm – tà lênh còn là điều nhắn nhủ, trao đổi kinh nghiệm cho nhau trong lao động sản xuất:“Kà tơm-tà lênh, Kà tơm-tà lênh, Kon a thi un aten kơ chông bi ai a chịt”. Tạm dịch là “con chim đen ăn giống cây, hãy bắn chết nó”
Không chỉ trong lao động sản xuất, điệu kà tơm - tà lênh còn được hát trong các dịp cưới, lễ tết và nó còn là tiếng ru con cửa các bà mẹ. Nội dung bài hát có thể sáng tác tùy hứng thường là những câu hát trao duyên kín đáo, tình tứ hoặc là những câu trêu ghẹo nhau nghịch ngợm, hóm hỉnh và có khi là những lời răn dạy con người. Ở đây điệu kà tơm - tà lênh có vần điệu rất thô sơ giống như những điệu cổ sơ của các điệu hát ví và hát dặm nghệ tĩnh. Điệu hát kà tơm - tà lênh là kết quả của quá trình tư duy của đồng bào xuất phát từ thực tiễn sinh động của cuộc đấu tranh với thiên nhiên, với sự vận động và phát triển của xã hội. Nhưng rất tiếc ngày nay do cuộc sống của đồng bào có nhiều thay đổi, cho nên các làn điệu dân ca đang bị mất mát dần và chưa có biện pháp nào để khai thác và lưu giữ trong đời sống văn nghệ ngày hôm nay.
Theo langvietonline.vn
 
Dân tộc Chứt Dân tộc Chứt

Tên tự gọi: Chứt.

Tên gọi khác: Rục, Arem, Sách.

Nhóm địa phương: Mày, Rục, Sách, Arem, Mã Liềng.

Dân số: 6.022 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vì nạn giặc giã, thuế khoá nặng nề nên họ phải chạy lên nương náu ở vùng núi, một số dần dần chuyển sâu vào vùng phía tây thuộc hai huyện Minh Hoá và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Theo gia phả của một số dòng họ người Việt trong vùng thì các nhóm Rục, Sách cư trú tại vùng núi này ít nhất đã được trên 500 năm nay.

Hoạt động sản xuất: Người Chứt sống bằng nông nghiệp nương rẫy du canh và săn bắn hái lượm. Trừ nhóm Sách sống bằng nông nghiệp còn các nhóm khác hái lượm và săn bắn chiếm vị trí quan trọng, thậm chí là nguồn sống chính trong những năm mất mùa. Các giống cây trồng chính là ngô, sắn, đỗ, lúa.

Công cụ sản xuất gồm: rìu, rựa, gậy chọc lỗ, nơi làm ruộng có thêm cày, bừa. Từ khi định cư, người Chứt đã nuôi trâu, bò phục vụ cày bừa, làm sức kéo. Ðan lát chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng trong gia đình. Ðôi nơi họ biết thêm nghề rèn dao, rìu.

Ăn: Lương thực chủ yếu là ngô, sắn. Ngày ăn hai bữa trưa và tối. Những năm mất mùa, họ phải ăn bột báng (bột nhúc) đồ thay cơm quanh năm.

Mặc: Người Chứt không biết dệt vải, vải mặc mua hoặc trao đổi với người Việt, người Lào trong vùng giáp biên. Mùa hè, nam giới đóng khố, cởi trần. Phụ nữ mặc váy. Mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ cây. Hiện nay đồng bào ăn mặc giống như người Việt.

: Họ quen ở trong các túp lều dùng dây buộc, dùng cột ngoãm hay ở trong các hang đá, mái đá. Cho đến trước năm 1954 các nhóm Rục, Arem chủ yếu vẫn sống trong các hang đá, mái đá. Ngày nay, họ sống tập trung ở các bản nhỏ trong các thung lũng. Nhà cửa đã khang trang hơn trước.

Phương tiện vận chuyển: Phổ biến là gùi có dây đeo vai, vác hoặc người kéo.

Quan hệ xã hội: Người Chứt gọi làng là Cà Vên. Mỗi làng thường chỉ có dăm bảy hoặc mười gia đình của một dòng họ cư trú. Ðôi khi các gia đình trong một họ lại cư trú ở nhiều làng khác nhau. Ðứng đầu mỗi làng là Pừ Cà Vên. Ông ta giữ luôn cả vai trò tôn giáo.

Sinh hoạt tập thể, quan trọng nhất trong làng là vào những dịp lễ tết nông nghiệp. Gia đình nhỏ phụ quyền là hình thức phổ biến nhất. Mỗi gia đình chỉ gồm vợ, chồng và con cái chưa lấy vợ, chồng.

Sinh đẻ: Sắp đến ngày ở cữ, người chồng thường dựng một cái lều nhỏ cho vợ ở ngoài rừng. Thỉnh thoảng anh ta đến thăm nom, tiếp tế lương thực và đồ ăn uống cho vợ. Phụ nữ quen đẻ đứng và tự xoay sở lấy hết thảy mọi việc. Ðẻ xong, người sản phụ tự mình nhóm lửa, đốt nóng một hòn đá cuội để sẵn rồi dội nước lã vào cho bốc hơi nóng để xông khói. Sau 7 ngày, người chồng mới đến đón vợ con vào nhà.

Cưới xin: Trai gái đến tuổi trưởng thành, được tự do tìm hiểu yêu đương. Trước khi cưới, nhà trai phải chọn ông mối, đi dạm hỏi vài lần. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan trọng nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Người Chứt không có tục ở rể.

Ma chay: Nhà giàu làm quan tài bằng thân cây khoét rỗng; nhà nghèo chỉ bó người chết bằng vỏ cây.

Thờ cúng: Tổ tiên được thờ tại nhà tộc trưởng. Khi tộc trưởng chết, việc thờ cúng chuyển sang người em trai kế. Khi nào các thế hệ trên không còn ai thì việc thờ cúng mới chuyển sang cho người ở thế hệ dưới.

Tin vào các loại ma rừng, ma suối, thổ công, ma bếp.... trong đó quan trọng nhất là ma làng.

Các nghi lễ nông nghiệp thường được thực hiện như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa.

Văn nghệ: Người Chứt thích dùng đàn, sáo, hát các giai điệu khác nhau. Họ có nhiều truyện cổ tích, thần thoại, đặc biệt truyện kể về sự khai thiên lập địa và sinh ra con người.

Chơi: Trong các dịp lễ tết, trẻ em chơi cầu lông làm bằng lông gà, đánh găng, người lớn thổi sáo, hát hò.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm