Dân ca - tiếng lòng của đồng bào Giáy

Dân ca - tiếng lòng của đồng bào Giáy
Dân tộc Giáy coi dân ca là tiếng lòng, là lời tâm sự và cũng là sự rung động của con tim, cho nên ngoài những bài hát có "khung", có "sườn", có lời sẵn, phải truyền dạy, học thuộc ra, thì có tới một nửa số bài hát đối đáp của đôi lứa, các buổi vui bên mâm rượu... đều là sáng tác "tức thì" để nói lên tình cảm, phù hợp với hoàn cảnh của đôi bên và cảnh quan, thời điểm đang diễn ra cuộc hát.
Nam nữ người Giáy hát đối đáp giao duyên
Nam nữ người Giáy hát đối đáp giao duyên

Dân ca dân tộc Giáy rất phong phú về nội dung, hát về tình yêu đôi lứa, hát về các loài hoa, hát về đám cưới, hát bên mâm rượu, ca ngợi công đức cha ông, bố mẹ... Điều bao trùm lên tất cả là ở chỗ, dân tộc Giáy cho rằng dân ca là một cái gì đó tinh tuý, tốt đẹp, tạo cho cuộc sống vui tươi, lành mạnh, trẻ trung, sôi nổi, ấm cúng, bình yên của cuộc sống con người. Dân ca dân tộc Giáy hình thành và quy định thành những loại bài hát, những cuộc hát.

Hát bên mâm rượu (Vươn ná láu)

Đối tượng hát bên mâm rượu thường có là nhà có việc vui, mời khách đến ăn mừng, giữa buổi tiệc, chủ có thể gợi ý cho khách hát bằng cách đem một khay rượu hồng (các chén rượu màu hồng) đặt vào giữa mâm (mâm được xem là mâm chính của bữa tiệc). Mâm được gia chủ đặt khay rượu, mỗi người phải uống một chén (nhấp môi, chứ không uống cạn). Rồi lời hát của một hoặc hai ba người trong mâm được cất lên.

Hát trước quan khách (Vươn ná srú ná srảy)

Cuộc hát này gồm cả nội dung, hình thức của cuộc hát "Bên mâm rượu" và có thêm các bài hát ngợi ca công đức của vua quan.

Bạn bè hát với cô dâu trong đám cưới (Vươn xóng háu xịp nghì pịt prạc)

Đối tượng chính là cô dâu, do đó các bài hát do con trai hát hay con gái hát và có cả bà mẹ của cô dâu hoặc các bạn nam nữ thay mặt bà mẹ hát thì đều căn dặn người con gái khi đã đi làm dâu con thì không được mải vui chơi nữa, mà phải chăm làm, phải chịu thương chịu khó...

Hát trao dâu (Vươn chao pắư)

Bạn bè hát với cô dâu trong đám cưới
Bạn bè hát với cô dâu trong đám cưới

Cuộc hát này diễn ra với đối tượng là đại diện nhà trai với đại diện nhà gái trong đám cưới. Nội dung của các bài hát trao dâu nói lên tình cảm của cha mẹ, anh chị em, họ hàng đối với cô dâu khi về nhà chồng. Đối với những giờ nhà gái ra về khác nhau, người Giáy đều có những bài hát tương ứng. Ví như trong trường hợp nhà gái ra về vào giờ sửu thì sẽ hát: Giờ sửu là giờ con trâu/ Bốn chân đỡ bồ thóc/ Đó mới là giờ tốt/ Con xuất giá theo chồng.

Hát tiễn đường (Vươn srỏng răn)

Vùng miền núi, người ta đi hàng ngày đường mới đến chợ và mỗi vùng lại họp chợ phiên vào một ngày khác nhau. Song cái rất riêng của chợ phiên miền núi là không phải ai đi chợ cũng mua và bán, có tới ba phần tư số người đi chợ chơi với đúng nghĩa của từ này, là đi gặp người thân, gặp bạn bè... Trong số đó, mười phần thì thanh niên chiếm chín phần, cho nên các chàng, các nàng gặp nhau là tìm cách "làm quen" với nhau và khi tan buổi chợ họ tìm cách được tiễn nhau bằng các bài dân ca.

Hát ống hát (Vươn boọc vươn)

Đây là cuộc hát "tâm tình" của đôi lứa. Sau khi thu hoạch lúa xong, vào khoảng tháng Chạp hoặc tháng Tết âm lịch, trên những thửa ruộng trước làng, đêm đến là từng đôi hoặc từng nhóm rủ nhau ra cánh đồng để nói lời yêu thương, tâm tình bằng lời hát qua 2 ống được nối bằng một sợi chỉ.

Hát ban đêm (Vương chang hằm)

Dạng hát này là phổ thông nhất và cũng có thể coi đây là sự biểu hiện trung tâm của dân ca dân tộc Giáy. Cuộc hát được tổ chức khi làng có con gái hoặc con trai làng khác đến. Đêm hát được mở đầu bằng bài "Xin mở cửa" và xin phép chủ nhà, xin phép người già, xin phép bạn bè trong cuộc. Sau giai đoạn này thì cũng đã đến nửa đêm nên người ta hát những bài về "nửa đêm", tiếp đó là những bài về "gà gáy" và hát những bài về "trời sáng", rồi những bài hát "chia tay". Người ta lại hẹn khi "mặt trời lặn, sao lên" sẽ lại gặp nhau.

Hát trao dâu
Hát trao dâu

Đêm thứ hai sẽ không có giai đoạn đầu nữa, mà có thể đi thẳng vào chuyện "hai ta" với các bài "bạn cũ, hát những bài "trao nhẫn, vòng, khăn áo" lưu niệm làm tin, các bài hát "thề nguyền không quên nhau", "thề nguyền sống với nhau"... Vật kỷ niệm, vật làm tin được trao vào nửa đêm là nhẫn, là vòng tay, là khăn. Những thứ đó nếu vì một lý do nào đó mà không thực hiện được lời thề trên thì người ta mãi mãi cất kỹ đáy rương, chỉ khi nào "đóng nắp ván thiên" mới cho vào cùng.

Yếu tố tạo nên đời sống tinh thần của một con người thì nhiều, song với dân tộc Giáy có thể nói dân ca là cái chủ đạo. Trong cuộc sống hàng ngày, tiếng hát luôn gắn bó với con người của họ. Người con của dân tộc Giáy được sống trong dân ca, tắm trong dân ca của dân tộc mình từ khi lọt lòng, rồi nằm trên lưng mẹ, trong lòng bà để đứa trẻ thôi khóc hoặc ngủ. Ông bà, bố mẹ, anh chị nó đều ru nó bằng dân ca. Dân ca thực sự đã hun đúc nên tâm hồn, tình cảm, cách sống và mối quan hệ tốt đẹp trong dân tộc Giáy.

Theo langvietonline.vn
Dân tộc Giáy Dân tộc Giáy

Tên tự gọi: Giáy

Tên gọi khác: Nhắng, Giẳng

Dân số: 58.617 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng Giáy thuộc ngữ hệ Thái - Ka Ðai.

Lịch sử: Người Giáy từ Trung Quốc di cư sang Việt Nam cách đây khoảng 200 năm.

Hoạt động sản xuất: Người Giáy có nhiều kinh nghiệm canh tác lúa nước trên những triền ruộng bậc thang. Bên cạnh đó họ còn làm thêm nương rẫy trồng ngô, lúa, các loại cây có củ và rau xanh. Chăn nuôi theo lối thả rông. Có một số nghề thủ công nhưng chưa phát triển.

Ăn: Ăn cơm tẻ. Gạo được luộc cho chín dở rồi mới cho vào chõ đồ lên như đồ xôi. Nước luộc gạo dùng làm đồ uống. Cách chế biến món ăn, nhất là ăn trong ngày lễ, ngày tết chịu ảnh hưởng sâu sắc của người Hán.

Mặc: Trước kia phụ nữ mặc váy xoè giống như váy của người Mông. Ngày nay họ mặc quần màu chàm đen có dải vải đỏ đắp trên phần cạp, áo cánh 5 thân xẻ tà, dài quá mông, cài khuy bên nách phải, hò áo và cổ tay áo viền những dải vải khác màu. Tóc vấn quanh đầu với những sợi chỉ hồng thả theo đuôi tóc. Vai khoác túi thêu chỉ màu với hoa văn là những đường gấp khúc. Nam giới mặc quần lá toạ, áo cánh xẻ tà, mở khuy ngực.

: Người Giáy cư trú ở các huyện Bát Xát, Bảo Thắng, Mường Khương (Lào Cai), Yên Minh, Ðồng Văn (Hà Giang), Phong Thổ, Mường Tè (Lai Châu). Nhà sàn là nhà ở truyền thống. Hiện nay, kiểu nhà sàn vẫn phổ biến trong bộ phận người Giáy ở Hà Giang, còn bộ phận ở Lào Cai và Lai Châu ở nhà đất nhưng phía trước nhà vẫn là sàn phơi. Nhà thường có 3 gian, bàn thờ đặt ở gian giữa.

Phương tiện vận chuyển: Họ gánh bằng dậu, dùng ngựa thồ, trâu kéo.

Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Giáy có sự phân hoá giai cấp rõ rệt. Tầng lớp trên là những chức dịch trong bộ máy chính quyền ở xã, thôn bản, nhiều người được hưởng ruộng công do dân cày cấy, có rừng thảo quả do dân trồng, có lính phục dịch, có người lo việc tang, việc cưới, đôi khi có cả đội xoè. Nông dân, ngoài đóng thuế còn phải làm lao dịch và cống nạp cho các chức dịch.

Cưới xin: Gồm nhiều nghi lễ: dạm hỏi, thả mối, ăn hỏi, cưới và lại mặt. Trong lễ ăn hỏi nhà trai đưa cho nhà gái một vòng cổ và một vòng tay để "đánh dấu". Trong lễ cưới ngoài chi phí cho ăn uống, nhà trai còn phải mang cho nhà gái một số thực phẩm và tiền để làm quà tặng họ hàng gần; mỗi người một con gà, một con vịt và một đồng bạc trắng. ở người Giáy cũng có tục kéo vợ như người Mông.

Sinh đẻ: Khi có thai phụ nữ phải kiêng nhiều thứ: không đun củi từ ngọn lên gốc (sợ đẻ ngược), không đến đám tang hay nơi thờ cúng (sợ mất vía). Gần đến ngày đẻ, họ phải cúng mụ. Trẻ đầy tháng cúng báo tổ tiên, đặt tên và lập lá số cho trẻ để sau này đem so tuổi khi lấy vợ, lấy chồng và chọn giờ nhập quan, hạ huyệt khi chết đi.

Ma chay: Người Giáy cho rằng khi người ta chết, nếu ma chay chu đáo thì sẽ được lên trời sống sung sướng cùng với tổ tiên, nếu không sẽ bị đưa xuống âm ti hoặc biến thành con vật. Vì thế, ở những gia đình khá giả đám tang có thể kéo dài tới 5-7 ngày và có thêm một số nghi lễ như thả đèn trôi sông, rước hồn đi dạo... Con cái để tang bố mẹ một năm. Lễ đoạn tang thường được tổ chức vào dịp cuối năm.

Thờ cúng: Bàn thờ đặt ở gian giữa, thường có ba bát hương theo thứ tự từ trái sang phải thờ táo quân, trời đất và tổ tiên. Trong trường hợp chủ nhà là con nuôi hay con rể thừa tự muốn thờ họ bố mẹ đẻ thì đặt thêm một bát hương ở bên trái. Những gia đình không thờ bà mụ trong buồng thì đặt thêm một bát hương ở bên phải. Ở một số gia đình ngoài bàn thờ lớn còn đặt một bàn thờ nhỏ để thờ bố mẹ vợ. Phía dưới bàn thờ lớn ngay trên mặt đất đặt một bát hương cúng thổ địa, ở hai bên cửa chính có hai bát hương thờ thần giữ cửa.

Lễ tết: Người Giáy ăn Tết như các dân tộc ở vùng Ðông Bắc: Tết Nguyên đán, Thanh minh, Ðoan ngọ....

Lịch: Người Giáy theo âm lịch.

Học: Người Giáy chưa có văn tự, chỉ có một số rất ít người biết chữ Hán.

Văn nghệ: Trong kho tàng văn nghệ của người Giáy có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, đồng dao, phong dao... Ở người Giáy có ba kiểu hát mà họ gọi là "vươn" hay "phướn" hát bên mâm rượu, hát đêm và hát tiễn dặn...

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm