Đặc sắc Tết của người M'Nông

Đặc sắc Tết của người M'Nông
Rất sớm, người M’Nông chuẩn bị đón Tết từ đầu tháng 9, tháng 10 âm lịch. Tết là dịp hội họp chung vui của cả buôn làng, những người đi xa cũng hối hả trở về sum họp với gia đình. Đường sá trong buôn làng được thanh niên dọn dẹp, sửa sang. Mọi nhà đều trang hoàng rực rỡ, chuẩn bị mổ heo, gà, một số gia đình giàu có còn mổ cả bò. Sau khi cất nông cụ được đưa vào kho, ngày 24 - 25 tháng Chạp, buôn làng bắt đầu vui chơi. Họ ăn Tết cho đến mùng 5 tháng Giêng âm lịch, rồi mới bắt đầu lên nương rẫy sản xuất.

Trong nhà, người M’Nông coi trọng cái bếp nhất. Vì thế, những ngày Tết phải giữ bếp lửa luôn nồng ấm, tuyệt đối không để lửa tắt, cũng không cho người khác xin lửa. Các món ăn cổ truyền M’Nông hầu hết đều nấu nướng trực tiếp trên lửa than hồng. Theo kinh nghiệm, để có các món nướng ngon, phải dùng bếp củi đun bằng rễ cây, lửa than đỏ đều. Giữ cho ngọn lửa cháy đều là một kinh nghiệm của người đầu bếp giỏi, không nhen lửa quá mạnh hay quá yếu, vì sẽ làm món ăn chín không đều, nhiễm mùi khói. Đối với người M’Nông, những nồi đồng, mâm đồng, chiêng đồng không chỉ là vật dụng sinh hoạt mà còn là tài sản gia đình; nên ngày thường, họ nấu nướng trong nồi niêu bằng nhôm hay đất; ngày Tết, họ mới đem đồ đồng ra sử dụng.
 
Người M'Nông nấu cơm lam đãi khách rồi vùi trong tro bếp cho nóng. Ảnh: baogialai.com.vn
Người M'Nông nấu cơm lam đãi khách rồi vùi trong tro bếp cho nóng.
Ảnh: 
baogialai.com.vn

Ngày Tết của người M’Nông không thể thiếu rượu đãi khách đến nhà. Rượu tết được nấu bằng thứ nếp ngon nhất, không nấu gạo tẻ hay ngô, sắn như ngày thường. Để nhắm rượu ngày Tết, người M’Nông làm nhiều món thịt gà nướng, luộc; món cà đắng nấu lòng bò, gỏi đọt măng rừng, hay đánh tiết canh (dùng phèo lấy từ ruột heo đem băm sống và trộn với huyết). Ngoài ra, còn các món nướng khác như thịt heo băm nhỏ trộn với muối đựng trong ống tre rồi nướng; món thịt heo trộn với ruột non, gan, ruột già hỗn hợp đựng trong ống tre hoặc món gan và lá sách heo thái từng miếng nhỏ xiên vào que tre đem nướng.

Ngày Tết, người M’Nông đặt các thức nhắm rượu trên lá chuối hột rừng (người Kinh gọi là chuối chát), hoặc trên mâm đồng hay trong một chiếc rá (rổ) để chủ và khách vừa nhắm rượu, vừa chuyện trò. Ngày Tết, các món ăn của người M'Nông không những đẹp mắt, ngon miệng, mà tất cả còn phải thể hiện đúng phong vị ẩm thực cổ truyền của họ, từ cách chế biến đến cách trưng bày, thết đãi theo truyền thống dân tộc.

Các món ăn ngày Tết của người M'Nông tiêu biểu nhất là “canh thụt”. Đây là món ăn độc đáo, mang đậm hương vị núi rừng, với các nguyên liệu khó kiếm như lá bép, đọt mây, ớt và cà đắng. Phụ gia gồm có cá khô, sườn heo, mì chính, muối. Trước khi nấu, đàn ông vào rừng chọn một cây lồ ô có lóng dài, không già cũng không quá non, đem về cưa ra từng khúc 0,5 mét. Sau đó, phụ nữ M’Nông cho tất cả nguyên liệu vào ống lồ ô, gác lên bếp lửa, nấu. Khi nấu, thỉnh thoảng phải cầm một chiếc que dài thụt vào ống, để cho các thành phần của món canh chín đều, vì thế mới có tên là “canh thụt”.
 
Nguyên liệu chuẩn bị nấu canh thụt cần có lá bép, cá lòng tong, đọt mây, cà đắng... Ảnh: baogialai.com.vn
Nguyên liệu chuẩn bị nấu canh thụt cần có lá bép, cá lòng tong, đọt mây, cà đắng... Ảnh: baogialai.com.vn

Món độc đáo thứ hai là canh “biăp pu”. Nguyên liệu chính để nấu canh gồm có lá bép, bột gạo, vỏ chuối khô, thịt lợn, cá suối... Hái lá bép còn tươi, càng già càng tốt, về bỏ vào cối giã. Gạo đem ngâm nước lã một đêm trước, bỏ vào cối giã chung với lá nhao (lá bép khô, người M’Nông cất trên gác bếp). Tất cả mọi thứ được giã nát thành bột, sau đó khuấy với nước ấm, đủ độ chín mới nêm gia vị, thịt, cá vào nồi. Đặc biệt là món canh này người M’Nông không dùng muối. Họ phải lấy vỏ chuối khô hay rễ tranh, đốt cháy thành tro, giã nhỏ và lọc nước từ trước Tết, để cho vào canh tạo độ mặn. Người M’Nông quan niệm, các cô gái phải biết nấu canh biăp pu ngon mới là người trưởng thành, khi lấy chồng đủ sức đảm đang công việc nội trợ gia đình.

Trong các ngày Tết, người M’Nông thường nấu cơm nếp thay vì nấu cơm gạo tẻ và đặc sắc nhất là nấu theo cách thức truyền thống (nướng trên than hồng), còn gọi là nấu cơm lam. Họ dùng những ống lồ ô còn non, giữ lại mấu ở một đầu ống, cho gạo nếp và nước vào, nút lại. Sau đó đốt bằng lửa than. Nếp chín tỏa hương thơm, quyện với mùi của lồ ô tươi, khiến cho cơm lam có một hương vị đặc sắc, ngon hơn cơm nếp nấu bằng chõ hay nồi đồng.
Theo baogialai.com.vn
Dân tộc M'nông Dân tộc M'nông

Tên tự gọi: Mnông.

Nhóm địa phương: Mnông Gar, Mnông Nông, Mnông Chil, Mnông Kuênh, Mnông Rlâm, Mnông Preh, Mnông Prâng, Mnông Ðíp, Mnông Bhiêt, Mnông Sitô, Mnông Bu Ðâng, Mnông Bu Nor, Mnông Bu Ðêh...

Dân số: 102.741 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Người Mnông là cư dân sinh tụ lâu đời ở miền trung Tây Nguyên nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Mnông trồng lúa nương trên rẫy bằng phương pháp "đao canh hoả chủng": phát, đốt rồi chọc lỗ tra hạt; thu hoạch theo lối tuốt lúa bằng tay. Họ trồng lúa nước bằng phương pháp "đao canh thuỷ nậu" trên những vùng đầm lầy, dùng trâu để quần ruộng cho nhão đất rồi gieo hạt, không cấy mạ như ở đồng bằng. Ðiều đáng lưu ý là vai trò của cái cuốc trong nền nông nghiệp cổ truyền Mnông. Ði đôi với nền sản xuất nông phẩm, việc săn bắn, hái lượm còn giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày.

Sản xuất thủ công nghiệp gia đình phổ biến là nghề đan đồ gia dụng bằng nguyên liệu mây, tre, lá; thứ đến là nghề trồng bông dệt vải do phụ nữ đảm nhiệm. Trong mỗi làng còn có một số người biết làm gốm thô, nặn bằng tay và nung lộ thiên. Sản phẩm là nồi đất các loại, bát ăn cơm và vò, hũ. Nghề rèn nông cụ không được phát triển lắm trong các vùng Mnông. Ðặc biệt ở vùng Buôn Ðôn, cư dân có nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng rất nổi tiếng. Cho đến nay nghề này vẫn được tiếp tục duy trì tuy số voi săn bắt được hàng năm đã giảm đi đáng kể.

Ăn: Họ ăn cơm gạo tẻ nấu trong những nồi đất nung, xa xưa thì phổ biến là cơm lam (gạo nếp nấu trong ống nứa). Bữa ăn trưa ở trên ruộng rẫy thường là món cháo chua đựng trong những trái bầu khô. Thức ăn chủ yếu là muối ớt, canh rau rừng, thịt chim, thú và cá suối bắt được. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm không phát triển. Rau củ được trồng trên rẫy để bổ sung cho nguồn thức ăn do hái lượm đem lại. Thức uống phổ biến là rượu cần.

Mặc: Về mùa nóng, đàn ông xưa kia thường đóng khố ở trần; còn đàn bà thì quấn váy tấm và cũng ở trần. Về mùa lạnh, họ khoác thêm trên mình một tấm mền, kiểu phục sức rất phổ biến ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Hiện nay trong trang phục Mnông đã tiếp thu nhiều yếu tố Việt. Tập quán "cà răng căng tai" phổ biến trong xã hội cổ truyền, đến nay chỉ còn lại dấu ấn ở lứa tuổi những người cao niên.

: Hiện nay người Mnông cư trú tập trung theo nhóm địa phương, chủ yếu ở các huyện: Lắc, Mdrắc, Ðắc Nông, Ðắc Mil, Krông Pách, Ea Súp, Buôn Ðôn... thuộc tỉnh Ðắk Lắk; một bộ phận cư trú ở phía bắc tỉnh Sông Bé và tây nam tỉnh Lâm Ðồng; địa bàn phân bố về phía tây đến tận miền đông Cam-pu-chia, giáp ranh với biên giới nước ta. Tuỳ theo vùng và từng nhóm địa phương mà họ xây cất nhà trệt hoặc nhà sàn.

Nhà trệt có mái tranh gần sát đất và nền đất là mặt bằng sinh hoạt, rất phổ biến ở nhóm Mnông Gar, Mnông Preh, Mnông Prâng... Còn nhà sàn thường là sàn thấp, chỉ cách mặt đất khoảng 0m70 đến1m00 và phổ biến ở nhóm Mnông Kuênh, Mnông Chil, Mnông Bhiêt... Riêng nhóm Mnông Rlâm ở vùng hồ Lắc xây cất nhà sàn cao theo kiến trúc của người Ê Ðê. Dù là nhà sàn hay nhà trệt thì mái vẫn là cỏ tranh: khung và sườn nhà được kết hợp 2 loại nguyên liệu là tre nứa và gỗ cây... Các bộ phận được liên kết bằng chạc, ngoãm, dây mây và dây rừng.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng nhờ có 2 quai quàng qua đôi vai. Việc vận chuyển bằng voi là phương thức đặc biệt được chú trọng ở vùng người Mnông. Việc đi lại, vận chuyển trên sông, hồ có thuyền độc mộc.

Quan hệ xã hội: Ðơn vị cư trú cơ bản gọi là bon hay uôn, tương ứng với làng, xóm. Các gia đình trong làng có quan hệ láng giềng, quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân. Làng nhỏ có độ mươi nóc nhà, làng lớn có khi tập trung đến vài chục nóc. Quan hệ huyết thống ở đây tính theo dòng họ mẹ. Dấu vết của chế độ mẫu hệ còn rất đậm nét trong mọi quan hệ xã hội hiện nay. Song tập quán mẫu hệ đã và đang tan rã ở nhiều thang bậc khác nhau theo từng nhóm địa phương.

Trong xã hội cổ truyền người đứng đầu mỗi làng gọi là Rnút hay Kroanh bon, bên cạnh có người phụ tá gọi là Rnoi, Rnớp. Khi cần chiến đấu thì cử ra một chức sắc gọi là Né tăm lăm lở làm thủ lĩnh quân sự. Xã hội Mnông vận hành theo tập quán pháp và Tập quán pháp ca được truyền khẩu qua các thế hệ để làm chuẩn mực cho mọi ứng xử trong đời sống.

Cưới xin: Phụ nữ thường chủ động hơn trong việc hôn nhân. Lễ cưới do 2 bên cùng tổ chức. Sau hôn nhân phổ biến là cư trú phía nhà gái. Ở nhiều nhóm địa phương lại phổ biến hình thức luân cư song phương. Con sinh ra đều mang họ mẹ. Trong tập quán cưới xin có 3 nghi lễ là Sa ur, Tâm ốp và Tám nsông tương ứng với lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ thành hôn. Chế độ một vợ một chồng là quy tắc chặt chẽ trong quan hệ hôn nhân. Luật tục Mnông phạt vạ rất nghiêm khắc với tội loạn luân và ngoại tình.

Ma chay: Khi có người chết, cả làng nghỉ việc đồng áng để cùng lo mai táng, ma chay. Thi hài được quàn tại nhà khoảng 2 ngày đối với người chết già, chết vì bệnh tật. Họ rất kinh hãi và chối bỏ việc ma chay đối với mọi cái chết do tai nạn gây nên (chết đuối, ngã cây, rắn cắn, hổ vồ... và chết do chiến tranh, đâm chém). Những cái chết "bất đắc kỳ tử" như vừa nêu thì thi hài không được đem vào nhà mà phải mai táng tức khắc một cách thầm lặng. Thổ táng là hình thức duy nhất trong việc tang ma, không có tập quán cải táng. Mọi người chết đều được chia tài sản để mang về "lập nghiệp" ở thế giới của ông bà gọi là Phan.

Nhà mới: Khi một ngôi nhà được xây cất hoàn tất thì lễ khánh thành để vào nhà mới sẽ được tổ chức linh đình bằng một ngày tiệc mặn cúng hiến sinh heo. Sau bữa ăn rồi mới đến tiệc rượu cần rất rôm rả trong tiếng nhạc cồng chiêng.

Lễ tết: Lễ hội đâm trâu là lễ hội cổ truyền được coi trọng nhất. Kết thúc mùa thu hoạch lúa hàng năm, mỗi làng đều tổ chức tết ăn mừng cơm mới, tạ ơn trời đất và thần lúa. Trâu được hiến sinh trong hội lễ tưng bừng để chuẩn bị cho một mùa vụ mới tràn đầy hy vọng.

Lịch: Nông lịch cổ truyền Mnông tính theo lịch âm, dựa vào quy trình canh tác rẫy. Mỗi năm cũng có 12 tháng, mỗi tháng có từ 29 đến 30 ngày.

Học: Trong xã hội cổ truyền Mnông chưa có chữ viết, chỉ có văn chương truyền miệng. Việc giáo dục, học tập được thực hiện bằng phương pháp chỉ dẫn trực tiếp, làm mẫu noi theo, bắt chước. Thập kỷ gần đây mới xuất hiện chữ viết nhưng sự phổ biến rộng rãi đang vấp phải không ít trở ngại.

Văn nghệ: Kho tàng truyện cổ, đặc biệt là sử thi và tập quán pháp ca tiềm ẩn nhiều giá trị, đã và đang được khai thác giới thiệu. Tục ngữ, ca dao, dân ca rất phong phú. Nhạc cụ có cồng chiêng, kèn bầu, kèn sừng trâu, kèn môi, đàn độc huyền, đàn 8 dây, sáo dọc. Ðặc biệt là vỏ trái bầu khô được sử dụng một cách phổ biến để tạo nên bộ phận khuếch đại âm thanh trong nhiều nhạc cụ bằng tre, nứa. Người ta đã tìm thấy ở vùng cư trú của người Mnông bộ đàn đá nguyên thuỷ nổi tiếng từ giữa thế kỷ XX.

Chơi: Trẻ em thường thích chơi diều, đánh cù, bịt mắt bắt dê, chạy, nhảy...

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm