“Nội lực” kết hợp “ngoại lực” để giảm nghèo bền vững

“Nội lực” kết hợp “ngoại lực” để giảm nghèo bền vững

Theo Ban Chỉ đạo Tây Bắc, bằng nhiều nguồn lực và các chương trình mục tiêu quốc gia, cơ sở vật chất, hạ tầng vùng Tây Bắc nói chung và sáu tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu nói riêng đã có bước phát triển mới. Tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng giảm từ 34,41% vào cuối năm 2010 xuống còn 18,26% vào cuối năm 2014, bình quân giảm 3,91%/năm. 

Tỷ lệ hộ nghèo của các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ trong vùng Tây Bắc đã giảm xuống còn 31,94% vào cuối năm 2014, giảm 5,55% so với cuối năm 2013 và giảm 25,58% trong cả giai đoạn, bình quân giảm trên 6%/năm, đạt mục tiêu theo kế hoạch đã được đề ra và vượt so với mục tiêu giảm bình quân 4%/năm theo mục tiêu của Nghị quyết. Tỷ lệ hộ nghèo của các xã được hỗ trợ đầu tư theo Chương trình 135 cũng giảm từ 3-5% mỗi năm, trong đó 21 xã đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu theo Chương trình 135.

Một góc hồ thủy điện Sơn La. Ảnh: Điêu Chính Tới - TTXVN
Một góc hồ thủy điện Sơn La. Ảnh: Điêu Chính Tới - TTXVN

Nỗ lực xóa nghèo

Ông Nông Văn Chung, Bí thư Đảng ủy xã Yên Sơn, huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng cho biết: Yên Sơn đang tận dụng các nguồn vốn, tích cực tuyên truyền vận động người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với địa hình. Xã cũng đang phối hợp cùng các cấp, ngành nghiên cứu trồng lại cây dược liệu, đưa các cây gỗ có giá trị kinh tế để trồng rừng, vận động người dân đưa lợn đen vào chăn nuôi với quy mô lớn. Chính quyền địa phương tăng cường tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của bà con về công tác xóa đói giảm nghèo, tích cực áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của địa phương vào sản xuất. Tích cực đầu tư hoàn thiện hệ thống giao thông, thủy lợi, mở các lớp tập huấn, dạy nghề về chăn nuôi, trồng trọt để từ đó phát huy nội lực, từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững.

Còn tại Lai Châu, ông Lê Trọng Quảng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho biết, là tỉnh nghèo nhất nước, thời gian qua Lai Châu đã nỗ lực xóa đói giảm nghèo nên đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn còn 21%, bình quân giảm trên 5%/năm. Tỉnh đã tập trung các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội , gắn tái định cư thủy điện với xóa đói giảm nghèo. Từ chỗ 15 xã nằm trong vùng tái định cư không có điện, đường, trường, trạm, không biết tiếng Kinh, nay giảm nghèo nhanh nhất, trở thành vùng khá, điểm sáng. 

Việt Nam đã đạt được kết quả ấn tượng trong giảm nghèo với nhiều tiến bộ ở các chỉ số phi thu nhập trong giảm nghèo như tăng cường tỷ lệ bao phủ y tế, dinh dưỡng, giáo dục… và đang đi đúng hướng nhưng những tiến bộ chưa đạt yêu cầu, đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn nữa trong giảm nghèo. (Nguyên Giám đốc Quốc gia Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, bà Victoria Kwa Kwa)

Bên cạnh sự nỗ lực của các địa phương, nhiều cấp, ngành, đơn vị trên cả nước cũng tham gia công tác xóa đói giảm nghèo giúp cho đồng bào Tây Bắc. Xác định được vai trò trọng yếu của khu vực Tây Bắc trong ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong những năm qua, ngành ngân hàng luôn bám sát chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước đã triển khai các giải pháp để hướng dòng vốn tín dụng tập trung vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên; xây dựng chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; triển khai cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp nhằm khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm, xây dựng cánh đồng lớn, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp và thúc đẩy xuất khẩu, trong đó có sự tham gia tích cực của một số doanh nghiệp trên địa bàn. 

Ngân hàng Nhà nước luôn quan tâm, tạo điều kiện, hỗ trợ để Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) thực hiện tốt các chương trình tín dụng ưu đãi. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước tích cực đàm phán, ký kết với Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á đầu tư các chương trình, dự án hỗ trợ cho các tỉnh khu vực Tây Bắc, đặc biệt là 6 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao. Trong giai đoạn 2009 - 2015, đã có nhiều dự án, chương trình tập trung hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội khu vực Tây Bắc, với số vốn đạt trên 648 triệu USD. 

Giai đoạn 2009 - 2015, NHCSXH đã tập trung nguồn vốn tín dụng ưu tiên đầu tư cho những địa phương có tỷ lệ hộ nghèo cao, góp phần quan trọng thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững tại các huyện nghèo. Từng bước tạo sự chuyển biến về đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc khu vực Tây Bắc, đã giúp trên 2,6 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, phục vụ đời sống, góp phần giúp trên 360.000 hộ thoát nghèo, trên 122.000 lao động có việc làm, xây dựng trên 663.000 công trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn, gần 152.000 căn nhà cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách… 

Tránh tư tưởng ỷ lại, cho không

Mặc dù đã đạt được những kết quả trên, nhưng Tây Bắc vẫn là vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước. Sáu tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu là “lõi nghèo” của Việt Nam, tỷ lệ hộ nghèo từ 20 - 30%. Nếu xét theo tiêu chí mới về chuẩn nghèo đa chiều theo Quyết định 59/2015/QĐ-TTg áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020 bao gồm nghèo về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh thông tin thì tỷ lệ hộ nghèo còn cao hơn nhiều.

Đến cuối năm 2014 có 6 tỉnh vùng Tây Bắc vẫn còn có tỷ lệ hộ nghèo cao trên 20% là Hà Giang (23,21%), Cao Bằng (20,55%), Yên Bái (20,57%), Sơn La (23,94%), Điện Biên (32,57%), Lai Châu (23,48%).

Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Huỳnh Văn Tí cũng nhận định kết quả giảm nghèo chưa mang tính bền vững, tốc độ giảm nghèo giữa các vùng, miền không đồng đều, thiếu tính bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ ở các huyện nghèo còn lúng túng, chậm tiến hành giao đất, giao rừng cho nhân dân, việc triển các chính sách hỗ trợ hộ nghèo gặp khó khăn. Chính sách hỗ trợ đất sản xuất đã được triển khai từ giai đoạn 2006 - 2010 nhưng kết quả thực hiện được rất hạn chế, do quỹ đất không còn; nhiều tỉnh gặp khó khăn trong việc tạo quỹ đất. Một số địa phương còn thụ động trong thực hiện các chính sách hỗ trợ giảm nghèo trên địa bàn, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương. Công tác lồng ghép nguồn lực đầu tư từ các chương trình, dự án và các chính sách hỗ trợ giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn và chưa đạt hiệu quả cao.

Để giảm nghèo nhanh tại 6 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao, vùng Tây Bắc cần chuyển một số chính sách cho không, cấp không sang chính sách cho vay ưu đãi theo nguyên tắc hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn để gắn trách nhiệm và tính tự giác của hộ nghèo; để người dân có ý thức bảo toàn vốn, tránh tư tưởng ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước. Đồng thời, ban hành chính sách thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh nông, lâm nghiệp, du lịch, dịch vụ có khả năng tạo việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn các huyện nghèo, để giúp các huyện nghèo giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn.

Từ thực tế công tác giảm nghèo tại địa phương, lãnh đạo một số địa phương vùng Tây Bắc kiến nghị muốn giảm nghèo nhanh, bền vững và phát huy được sức sản xuất của bà con, mỗi tỉnh cần có một người phụ trách riêng về lĩnh vực này, rà soát kỹ chính sách của Trung ương và xây dựng chính sách hỗ trợ đồng bộ của tỉnh, chính sách cho từng huyện, đặc biệt là từng xã với nhóm sản phẩm của mình để tạo được cú hích, giúp bà con sản xuất có liên kết với thị trường. 

Thời gian tới, các tỉnh trong vùng Tây Bắc cần đẩy mạnh hơn nữa phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững trên cơ sở phát triển khai thác tiềm năng, lợi thế của vùng như một cách toàn diện như: Nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến, du lịch, dịch vụ và kinh tế biên mậu; ứng dụng công nghệ vào sản xuất, đào tạo lao động, nhất là đào tạo nghề, xuất khẩu lao động. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của cả vùng và mỗi địa phương, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, thu hút nguồn lực trong nước và quốc tế đầu tư vào Tây Bắc. Thực hiện liên kết sản xuất, liên kết ngang, liên kết dọc, liên kết giữa 4 nhà tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất hàng hóa lớn trong vùng. Tiếp tục nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả; làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, hỗ trợ để người dân chủ động vươn lên thoát nghèo, xây dựng chương trình phát triển bền vững vùng Tây Bắc.

Cần có giải pháp cụ thể hơn trong huy động thêm nguồn lực, lồng ghép với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới để có nguồn lực lớn hơn, góp phần xóa đói, giảm nghèo. Các bộ, ngành sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách liên quan đến giảm nghèo bền vững, xây dựng đồng bộ Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020, trong đó lưu ý tập trung hơn nguồn lực cho vùng Tây Bắc. Cấp ủy các cấp, chính quyền địa phương cần giải quyết rốt ráo những tồn tại về đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào vùng cao, bố trí nguồn lực và hỗ trợ hộ nghèo những điều kiện cần thiết trong sản xuất như: giống, vốn, kỹ thuật canh tác và tiêu thụ sản phẩm... Củng cố hệ thống chính trị cơ sở, phát huy vai trò người có uy tín, cán bộ đảng viên, người làm ăn giỏi trong cộng đồng, làng bản tạo nên phong trào tương thân, tương ái giúp đỡ hộ nghèo.

Theo chuẩn nghèo mới, mục tiêu, nhiệm vụ giảm nghèo bền vững không thay đổi nhưng giải pháp thực hiện phải đồng bộ, toàn diện, hiệu quả để người nghèo vừa được nâng cao thu nhập, vừa được tiếp cận đầy đủ dịch vụ xã hội cơ bản và quan trọng là phải đẩy lùi, tiến tới xóa bỏ tận gốc rễ căn nguyên đói nghèo, đảm bảo mục tiêu thoát nghèo bền vững.

“Nội lực” kết hợp “ngoại lực” để giảm nghèo bền vững ảnh 2

Ông Hầu A Lềnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Bắc: 

Hạn chế tái nghèo 

Theo định hướng trong giai đoạn tới, các tỉnh vùng Tây Bắc nhanh chóng hoàn thành việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chính sách giảm nghèo và sắp xếp, điều chỉnh theo hướng tập trung chính sách, nguồn lực, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp. Triển khai điều tra, tổng hợp kết quả hộ nghèo theo chuẩn nghèo mới bằng phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản; hoàn thiện tiêu chí phân loại và quy trình xác định đối tượng, địa bàn nghèo. Điều tra, phân loại và công bố tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo theo chuẩn nghèo mới. Đổi mới có hiệu quả cơ chế điều hành, chủ trì, phân công, phân cấp, phối hợp trong công tác giảm nghèo. 

Phấn đấu đạt mục tiêu giảm nghèo theo Nghị quyết 5 năm (2016 - 2020) của Quốc hội, hạn chế thấp nhất tình trạng tái nghèo. Tăng nguồn lực đầu tư và cân đối nguồn lực cho các chính sách, chương trình giảm nghèo. Ưu tiên nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục và tỷ lệ đào tạo nghề. Thúc đẩy việc kết nối phát triển kinh tế - xã hội giữa vùng khó khăn với vùng phát triển. Thực hiện chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng, hỗ trợ tạo việc làm để giải quyết cho lao động tại chỗ, nâng cao khả năng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường,... Thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện gắn với đối tượng, địa bàn và thời hạn thụ hưởng nhằm tăng cơ hội tiếp cận chính sách và khuyến khích sự tích cực, chủ động tham gia của người nghèo. Bảo đảm ít nhất 90% hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế; 70% xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế, trên 90% trạm y tế cấp xã có đủ điều kiện khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế; điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và chính sách bảo hiểm y tế để bảo đảm tăng cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, người cận nghèo. 

Tăng cường quản lý nhà nước; hoàn thiện cơ chế điều hành, phân cấp đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể cho địa phương; cải cách thủ tục hành chính; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức tự vươn lên thoát nghèo. 
 

“Nội lực” kết hợp “ngoại lực” để giảm nghèo bền vững ảnh 3

Ông Đào Ngọc Dung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội: 

Cải thiện môi trường đầu tư ở các địa phương 

Để phát triển kinh tế - xã hội, vùng Tây Bắc cần tập trung vào các giải pháp quan trọng: Điều tra, nghiên cứu hiệu quả thực thi các chính sách đối với vùng Tây Bắc, giao địa phương thực hiện theo hướng giảm mạnh việc "cho không", tập trung vào việc cho vay, hỗ trợ đầu tư các công trình thiết yếu. Các địa phương trong vùng cần cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh của từng địa phương và cả vùng, từ đó nghiên cứu khai thác tiềm năng lợi thế trong từng lĩnh vực, tập trung vào công tác đào tạo nghề và xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh giải quyết 6 trục chính trong hệ thống giao thông vùng Tây Bắc; triển khai có hiệu quả hai chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và xóa đói giảm nghèo, xây dựng các mô hình hợp tác xã kiểu mới; tập trung đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực; khuyến khích, hỗ trợ ưu đãi đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã kiểu mới, chủ nông trại, trạng trại, hộ gia đình thu hút nhiều lao động vào làm việc... 
 

“Nội lực” kết hợp “ngoại lực” để giảm nghèo bền vững ảnh 4

Ông Hoàng Văn Chất, Bí thư Tỉnh ủy Sơn La: 

Chuẩn nghèo đa chiều không bỏ sót đối tượng hộ nghèo 

Đề nghị trung ương đề ra các chủ trương, giải pháp cơ bản cho công tác xóa đói, giảm nghèo đa chiều đảm bảo tính bền vững cho Sơn La nói riêng và các tỉnh Tây Bắc nói chung trong thời gian tới như: Tuyên truyền, phổ biến để nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành hiểu được tiêu chí chuẩn nghèo đa chiều một cách chính xác không bỏ sót đối tượng hộ nghèo. Chuyển đổi và nâng cao nhận thức của các hộ nghèo, phát huy tính tự lực, tự cường trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội, tránh tâm lý ỷ lại vào nhà nước. Phân tích, đánh giá, nhận diện và phân loại rõ từng đối tượng người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo trên cơ sở đó đề ra kế hoạch, giải pháp và tập trung ưu tiên có trọng tâm, trọng điểm. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các chính sách giảm nghèo theo tiêu chí mới, dựa vào đặc thù văn hóa, kinh tế, xã hội của các nhóm dân tộc khác nhau. Huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho chương trình việc làm và giảm nghèo gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới. Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ ở cơ sở, khuyến khích phát triển các dịch vụ y tế, giáo dục, an sinh xã hội, đất ở, đất sản xuất, điện, nước… Thí điểm chủ trương xóa đói, giảm nghèo tại các địa phương có nhiều hộ nghèo. 

V.T

Có thể bạn quan tâm