Nỗ lực giảm thiểu nguy cơ trượt lở đất đá các vùng miền núi

Nỗ lực giảm thiểu nguy cơ trượt lở đất đá các vùng miền núi
Nguyên nhân chủ yếu do con người 

Theo nghiên cứu của Viện Địa chất và Khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường): Trượt lở đất đá được kích hoạt do nhiều yếu tố ngoại sinh như mưa, bão, lũ, lụt, các quá trình phong hóa đất đá…và nội sinh như động đất. Đặc biệt là do con người làm mất độ ổn định sườn dốc, tăng chấn rung do mìn hoặc máy móc, tăng trọng tải lên mặt sườn dốc và gây xói mòn, làm yếu độ liên kết của đất đá, khả năng giữ đất của rễ cây do các hoạt động phá rừng, khai thác khoáng sản, san lấp, cắt, xẻ đồi núi để xây dựng đường sá, nhà cửa và các công trình khác. Điều này dẫn tới tai biến trượt lở đất đá, lũ bùn đã và đang gây thảm họa lớn cho con người và xã hội. 

Việt Nam có 4 vùng được xác định có nguy cơ trượt lở lớn về đồi núi như vùng Lai Châu - Điện Biên; vùng Hoàng Liên Sơn bao gồm các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang… và các tỉnh Trung Trung Bộ như Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ngoài các khu vực trên, tỉnh Bắc Kạn cũng là địa bàn thường xuyên xảy ra trượt lở, trong đó tập trung chủ yếu ở các huyện Chợ Đồn, Hồ Ba Bể… 
 
Vào mùa mưa, các vùng núi rất dễ xảy ra nguy cơ sạt lở đất đá. Ảnh: internet
Vào mùa mưa, các vùng núi rất dễ xảy ra nguy cơ sạt lở đất đá. Ảnh: internet

Những năm qua, cùng với tiến trình xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển kinh tế-xã hội, nạn trượt lở đất đá ở vùng núi cao, sườn dốc xuất hiện ngày càng nhiều trên địa bàn các tỉnh miền núi, kéo theo lũ bùn đất vùi lấp nhiều nhà cửa, đất canh tác và cướp đi sinh mạng của hàng chục người. Nhất là trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc như Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang… Nguyên nhân là do các hiện tượng tai biến địa chất liên quan đến sự dịch chuyển của vật liệu đất, đá, mảnh vụn từ sườn dốc đổ xuống phía dưới vì tác động của trọng lực. Các hiện tượng này có thể xảy ra trên bất kỳ địa hình nào khi mà các điều kiện về vật chất, độ ẩm và độ dốc của sườn đồi núi. 

Các vùng miền núi nước ta có đặc điểm chung là địa hình chia cắt, độ dốc lớn, dân cư thường sống tập trung ở chân đồi, núi. Dưới tác động của nhiều hoạt động nhân sinh của con người như xây dựng giao thông, các công trình thủy điện, thủy lợi, các hoạt động chặt phá rừng. Do đó hiện tượng trượt lở đất đá luôn rình rập, đe dọa cuộc sống và tính mạng của người dân. Tại 10 tỉnh miền núi phía Bắc đang có khoảng 10.266 điểm nguy cơ sạt lở đất, trong đó 2.110 điểm nguy cơ khối lượng trượt lớn, rất lớn và đặc biệt lớn. 

Xây dựng bộ bản đồ phân vùng cảnh báo 

Mục tiêu của Đề án “Điều tra, đánh giá và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá các vùng miền núi Việt Nam” là xây dựng bộ dữ liệu, bản đồ cảnh báo nguy cơ sạt trượt đất đá tại các vùng miền núi, trung du làm cơ sở phục vụ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sắp xếp lại dân cư đảm bảo ổn định, bền vững. Đồng thời nâng cao khả năng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá, phục vụ chỉ đạo sơ tán dân cư kịp thời, phòng, tránh, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra. 

Viện Địa chất và Khoáng sản-cơ quan chủ trì Đề án cho biết: Trong giai đoạn I (2012-2015), Đề án đã triển khai công tác điều tra hiện trạng trượt lở đất đá tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Đến cuối năm 2014, Đề án đã hoàn thành các sản phẩm chính của Bước 1 là bộ bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 khu vực miền núi thuộc 10 tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thanh Hóa và Nghệ An, cùng các bản đồ thành phần đi kèm.Trên cơ sở kết quả điều tra và sơ bộ đánh giá các điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của toàn khu vực. 

Đề án đã khoanh định các vùng nguy hiểm, tiềm ẩn các nguy cơ trượt lở đất đá có thể ảnh hưởng đến điều kiện kinh tế, giao thông, dân cư và kế hoạch phát triển kinh tế địa phương. Qua đó đề xuất một số khu vực trọng điểm cần điều tra chi tiết ở các tỷ lệ 1:25.000 và 1:10.000. Các kết quả này là những dữ liệu quan trọng phục vụ công tác phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá khu vực miền núi tỉnh Lào Cai vào những bước tiếp theo. 

Tiếp đó tháng 11/2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản tiếp tục chuyển giao các sản phẩm là các kết quả Bước 1 – 2 theo quy trình toàn Đề án đã hoàn thiện vào các năm 2014 – 2015. Bộ sản phẩm bao gồm Bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 các tỉnh Cao Bằng, Bắc Giang, Quảng Ninh và Hòa Bình; Bản đồ vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An. Trong đó sản phẩm của Bước 1 là bộ bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá, là kết quả thực hiện nhiệm vụ thu thập, tổng hợp tài liệu, số liệu từ các nguồn thông tin khác nhau. Trọng tâm là công tác khảo sát thực địa để điều tra hiện trạng trượt lở đất đá và các yếu tố thành phần gây nên hiện tượng trượt lở đất đá. Đây là hạng mục công tác điều tra cơ bản, chiếm nhiều thời gian triển khai và có tầm quan trọng nhất trong toàn bộ quy trình triển khai của Đề án. 

Sản phẩm của Bước 2 là bộ bản đồ phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá, là kết quả thực hiện các nhiệm vụ đánh giá hiện trạng trượt lở đất đá trong các khu vực đã điều tra, phân tích mối liên quan với các yếu tố thành phần nhằm xác định các nguyên nhân chính gây nên hiện tượng trượt lở đất đá trong khu vực. Trên cơ sở đó, Đề án xây dựng các mô hình phù hợp để đánh giá, dự báo và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá cho các khu vực đã được điều tra và cho các khu vực có điều kiện tự nhiên – môi trường tương đồng. Bộ bản đồ này được xây dựng ở tỷ lệ 1:50.000, với mức độ chi tiết tới cấp xã. Hai bộ bản đồ sản phẩm đầu tiên của Đề án thể hiện sự cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá trên toàn bộ diện tích các khu vực đã điều tra, bao gồm cả các khu vực không có dân cư. 

Bộ sản phẩm Bước 3 sẽ cung cấp các thông tin chi tiết hơn về tần suất, quy mô xảy ra trượt lở đất đá, và có bao gồm yếu tố kích hoạt chính là các ngưỡng mưa gây trượt. Bộ sản phẩm của Bước 4 sẽ cung cấp thông tin về các mức độ chịu tổn thương và rủi ro đối với con người, tài sản, cơ sở hạ tầng cho các khu vực tập trung dân cư, kể cả các khu vực sẽ quy hoạch phát triển và bố trí dân cư trong tương lai. Qua điều tra hiện trạng của 14 tỉnh và kết quả phân vùng cảnh báo nguy cơ của 4 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa (12 huyện) và Nghệ An (11 huyện), cả 4 tỉnh này đều được đánh giá có mức độ nguy cơ trượt lở đất đá cao. Nhưng cho tới thời điểm này vẫn chưa thể xác định được chính xác tỉnh nào có nguy cơ trượt lở đất đá cao nhất. 

Nhận xét về Bộ bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá được thành lập, Tiến sĩ Lê Lương, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cho rằng, hệ thống các bản đồ phân vùng cảnh báo là kết quả các mô hình dự báo và cảnh báo theo phương pháp SMCE và các mô hình mã nguồn mở khác. Dữ liệu đầu vào là các bản đồ các yếu tố thành phần - nguyên nhân gây trượt tại từng khu vực. Các bản đồ thành phần này thể hiện thực trạng các điều kiện tự nhiên - môi trường tại các năm xây dựng chúng. Do vậy, các mức độ nguy cơ trượt lở đất đá vẫn có thể thay đổi do sự thay đổi của các yếu tố thành phần. Vẫn cần phải cập nhật thông tin bổ sung dữ liệu mới như địa mạo, thảm phủ, hiện trạng sử dụng đất, khu vực địa hình bị thay đổi bởi hệ thống đường giao thông mới xây dựng...vào bản đồ phân vùng, sẽ mang lại hiệu quả cao hơn trong công tác phòng, chống trượt lở đất đá.
TTXVN

Có thể bạn quan tâm