Tết cổ truyền của người La Hủ ở Lai Châu

Tết cổ truyền của người La Hủ ở Lai Châu
Tết cổ truyền luôn có ý nghĩa quan trọng đối với dân tộc La Hủ ở Lai Châu. Đó là những ngày vui tươi, phấn khởi khi đồng bào vừa kết thúc một vụ mùa bội thu.
Với khoảng 9.800 người, dân tộc La Hủ sinh sống chủ yếu ở huyện Mường Tè (Lai Châu). Tuy đời sống còn nhiều khó khăn song bà con La Hủ vẫn lưu giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống từ trang phục, ẩm thực, các điệu dân ca, dân vũ. Nhất là việc đón tết cổ truyền (Khô Chà) được bà con duy trì được nhiều nét văn hóa độc đáo.
 
Tết cổ truyền có ý nghĩa quan trọng với người La Hủ.
Tết cổ truyền có ý nghĩa quan trọng với người La Hủ. 

Khi mùa thu hoạch kết thúc (tức là vào khoảng cuối tháng 12 dương lịch) cũng là thời điểm cộng đồng người La Hủ vui xuân đón tết cổ truyền. Đây là cái tết to nhất của người La Hủ, cũng là dịp đoàn tụ của gia đình, cộng đồng. Thời gian ăn tết kéo dài 3 ngày, bà con chọn ngày ăn tết thường tránh ngày mất của bố, mẹ.

Trong ngày tết đầu tiên, gia đình nào cũng làm bánh dày. Cùng với bánh dầy, trong ngày tết của bà con La Hủ không thể thiếu thịt lợn. Để có lợn thịt tết, bà con thường nuôi trước đó cả năm, thường là lợn đực, khỏe mạnh, đẹp mã. Lợn trước khi bị chọc tiết sẽ được chủ nhà cho ăn bánh trôi vì tin rằng làm lý như vậy trong năm tới lợn sẽ hay ăn, chóng lớn, khỏe mạnh.

Khi pha thịt lợn, bà con thường lấy lá gan để xem vận hạn trong năm tới của gia đình. Gia chủ một tay cầm một chiếc đũa đặt nằm ngang lên mặt lá gan rồi vừa hơi ấn vừa gạt gạt qua bên nọ rồi lại bên kia để những tia máu dưới bề mặt lá gan hằn rõ lên. Bà con tin rằng nếu các tia máu đó liền mạch và đỏ tươi là tốt, còn nếu có tia đứt thì năm ấy gia đình sẽ có người gặp hạn. Nếu các tia máu không có màu đỏ tươi thì việc làm ăn của gia đình sẽ kém.

Theo phong tục của người La Hủ, trong ngày đầu tiên của Tết cổ truyền, chỉ những người trong dòng họ (cùng chung tổ tiên một đời) đến nhà đặt ban thờ tổ tiên chúc Tết. Nhưng sau 12 giờ trưa, cả bản trở lên nhộn nhịp, đường mòn trong bản lúc nào cũng có những tốp người đến chúc Tết nhà nhau.

Vào ngày tết thứ 2, khi con gà đầu tiên trong bản cất tiếng gáy, các gia đình thường cử 1 người đi đến đầu nguồn nước sạch lấy nước về làm cơm cúng tổ tiên (Kê cá khụ). Lễ vật dâng cúng tổ tiên có men ruợu, củ gừng, cơm, thịt lợn và bánh dày được bày trên cái mâm nhỏ đặt ở đầu giường ngủ của vợ chồng gia chủ. Khi các thành viên trong gia đình, dòng họ có mặt đông đủ, chủ nhà quỳ trước mâm lễ khấn tổ tiên phù hộ cho con cháu dồi dào sức khỏe, mùa màng tươi tốt, bội thu; vật nuôi lớn nhanh, không ốm đau, dịch bệnh. Sau đó, bà con đến thăm nhà nhau, chúc nhau những điều tốt đẹp trong năm mới. Nét đặc biệt là, trong 3 ngày Tết, người chủ nhà trực tiếp làm lễ cúng thì không ra khỏi địa bàn, không đi ngủ ở nhà khác. 

Trong 3 ngày Tết, người La Hủ kiêng sát sinh chó, dê vì dó là những con vật gần gũi, thân thiết với người La Hủ nếu giết chúng trong ngày Tết thì năm ấy các gia đình trong dòng họ sẽ gặp xui xẻo. Trong những ngày Tết, khi quét nhà, người La Hủ không vứt rác ra ngoài mà ủ vào một góc. Hết Tết, họ mới bỏ rác đi.

Cùng với thực hiện các lễ nghi thì tại các bản còn tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao. Các chàng trai, cô gái La Hủ với những bộ trang phục mới, sặc sỡ say sưa hòa mình trong các trò chơi dân gian hay các điệu dân ca dân vũ trong tiếng trống chiêng rộn ràng.
 
Cùng với thực hiện các lễ nghi thì tại các bản còn tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao.
Cùng với thực hiện các lễ nghi thì tại các bản còn tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao.

Hiện nay, hầu như bà con La Hủ đã ăn tết cổ truyền trùng thời gian với các dân tộc khác, song những nét riêng trong phong tục đón tết cổ truyền vẫn được bà con duy trì, gìn giữ, tạo nên nét độc đáo riêng biệt, góp phần tạo nên sự đa dạng trong bản sắc văn hóa cộng đồng các dân tộc Lai Châu.
Theo dantocviet.cinet.gov.vn
Dân tộc La Hủ Dân tộc La Hủ

Tên tự gọi: La Hủ.

Tên gọi khác: Xá lá vàng, Cò Xung, Khù Sung, Kha Quy, Cọ Sọ, Nê Thú.

Nhóm địa phương: La Hủ na (đen), La Hủ sư (vàng) và La Hủ phung (trắng).

Dân số: 9.651 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (ngữ hệ Hán - Tạng), gần với Miến hơn.

Hoạt động sản xuất: Người La Hủ chủ yếu làm nương du canh với nhịp độ luân chuyển cao. Gần đây họ chuyển dần sang trồng lúa trên ruộng bậc thang. Người La Hủ nổi tiếng về nghề đan lát (mâm cơm, ghế mây), rèn.Săn bắt, đánh cá, hái lượm có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế.

Ăn: Người La Hủ đã chuyển từ ăn ngô, cơm nếp sang chủ yếu cơm tẻ, thích dùng các loại thịt chim, thú do săn bắn được, cá bắt ở khe suối, măng chua, canh đậu, bầu bí.

Mặc: Người La Hủ không có truyền thống trồng bông. Trước đây, phụ nữ thường đem thịt thú rừng, nấm hương, thuốc phiện và các lâm thổ sản quý đổi lấy vải của các dân tộc khác hoặc đổi lấy bông để tự dệt thành vải. Phụ nữ mặc quần áo dài. Mặc hai lớp áo, áo trong tay dài, cài khuy bên nách phải, áo ngoài tay ngắn, cài khuy giữa ngực. Ngày thường họ chỉ mặc áo dài, ngày lễ, tết mặc thêm áo ngắn ra ngoài.

: Trước đây họ thường làm nhà, lều rải rác ở ngay trên nương, trên núi cao thuộc hai xã Pa Ủ và Pa Vệ Sủ huyện Mường Tè (Lai Châu). Nhà lợp lá, lá vàng lại chuyển đi nơi khác nên người La Hủ mới có tên Xá lá vàng. Hiện nay, họ phổ biến ở nhà trệt hoặc trình tường bằng đất hoặc ván. Bếp, nhà thờ và giường ngủ của gia đình bao giờ cũng ở chung một gian.

Phương tiện vận chuyển: Người La Hủ quen dùng gùi đan bằng mây, giang, có hai quai đeo vai để chuyên chở trong điều kiện địa hình rất dốc. Hon thường địu trẻ khi đi ca hay lúc làm việc.

Quan hệ xã hội: Người La Hủ cư trú phân tán thành nhiều xóm nhỏ với thành phần dân cư thay đổi thường xuyên do lối sống du canh. Xã hội chưa có sự phân hoá giàu nghèo. Người phụ nữ được tôn trọng trong gia đình song có ít vai trò xã hội.

Quan hệ dòng họ lỏng lẻo, không có người đứng đầu dòng họ và không có nghi lễ cúng bái cho cả họ. Một số mang tên chim, thú nhưng nhiều họ khác không còn ai nhớ ý nghĩa.

Cưới xin: Trai gái La Hủ được phép tự do yêu đương khi đến tuổi lập gia đình. Việc cưới hỏi được tiến hành qua nhiều bước. Trong só lễ vật nhà trai đưa sang nhà gái bắt buộc phải có thịt sóc. Sau lễ cưới, cô dâu cư trú bên chồng. Tuy nhiên, tục ở rể vẫn tồn tại với những chàng trai không sắm đủ đồ dẫn cưới, nhất là bạc trắng.

Sinh đẻ: Phụ nữ La Hủ được phép đẻ trong gian buồng của mình với sự giúp đỡ của mẹ chồng hay chị em gái. Sau khi đẻ ba ngày thì lễ đặt tên cho đứa trẻ. Tên của trẻ sơ sinh thường được đặt theo ngày sinh, do vậy trong cộng đồng người La Hủ, việc trùng tên khá phổ biến. Nếu thấy trẻ lâu lớn hoặc hay đau ốm, có thể làm lễ đổi tên khác.

Ma chay: Khi nhà có người chết, người ta bắn súng để đuổi ma và báo cho họ hàng, làng xóm biết. Quan tài thường là một khúc gỗ bổ đôi, khoét rỗng cả hai nửa. Ngày giờ đi chôn được lựa chọn cẩn thận. Người La Hủ không có nghĩa địa cố định. Thời hạn để tang của con cái đối với cha mẹ là ba năm song không có các dấu hiệu đặc biệt trên trang phục hay đầu tóc.

Thờ cúng: Người ta cúng tổ tiên, bố mẹ và những người thân đã mất chỉ vào các dịp cơm mới, ngày tết tháng bảy hay gieo xong lúa nương, khi cưới xin, ma chay. Không có tục cúng vào ngày giỗ. Lễ vật duy nhất dâng cho tổ tiên là cơm gói trong lá rừng.

Là cư dân hái lượm nhưng vào dịp tết cơm mới, đầu tháng 10 hay tháng 11, họ kiêng 3 ngày không đi hái rau, lấy củi, chặt cây, phát cỏ trong rừng để cầu mong cây cỏ tốt quanh năm.

Quan niệm về sự sống và chết là do trời định. Ở trên trời có hai căn nhà, một gọi là nà đề (nhà ốm), một gọi là xơ đề (nhà chết). Nếu hồn của người nào lên đến xơ đề thì nhất định sẽ chết. Còn nếu hồn lên tới nà đề thì phải làm lễ cúng xin hồn về để được sống lâu hơn. Người ta tin mỗi người chỉ sống trong một hạn tuổi đã định ngay từ khi mới đẻ ra. Nhưng cũng có thể sống vượt quá hạn đó nếu như tổ chức lễ cúng di chá. Phải bói để tìm nguyên nhân giải hạn này.

Học: Xưa kia, người La Hủ không có chữ. Hiện nay, học sinh học chữ quốc ngữ. Người La Hủ sử dụng lịch truyền miệng chia năm thành 12 tháng, mỗi tháng tương ứng với một con vật. Họ biết nhiều cây thuốc trên rừng. Ðể giữ bí mật và mong sự linh nghiệm của những cây thuốc, người ta thường phủ lên trên những nghi lễ, tín ngưỡng. Mỗi lần định đi hái thuốc họ giữ kín cả buổi không nói chuyện với ai, bất chợt lẻn vào rừng không cho người khác biết.

Văn nghệ: Người La Hủ thích nghe và sử dụng thành thạo khèn.

Chơi: Chiều chiều, trẻ em thường quây quần bên đống lửa quanh nhà, bên bờ suối vừa chơi, vừa hát, gõ cây làm nhịp.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm