Quà mừng cưới của người Ba Na

Quà mừng cưới của người Ba Na
Đám cưới của người Ba Na không phải nấu nướng cầu kỳ, chỉ có cháo đặc và rượu, thịt nhưng bà con gần xa đến chung vui rất đông. Khi đến dự cưới và chúc phúc cho cô dâu, chú rể, mọi người thường mang theo những món quà tặng cho cô dâu, chú rể rất ấn tượng…
Thường thì từ cuối năm cũ đến hết mùa khô của năm sau, nhiều gia đình người Ba Na ở thành phố Kon Tum lại rộn ràng tổ chức đám cưới cho con trai, con gái của mình. Đám cưới của người Ba Na không phải nấu nướng cầu kỳ, chỉ có cháo đặc và rượu, thịt nhưng bà con gần xa đến chung vui rất đông. Khi đến dự cưới và chúc phúc cho cô dâu, chú rể, mọi người thường mang theo những món quà tặng cho cô dâu, chú rể rất ấn tượng…
Cô dâu, chú rể cùng các phụ dâu, phụ rể uống ghè rượu do họ hàng mời.
Cô dâu, chú rể cùng các phụ dâu, phụ rể uống ghè rượu do họ hàng mời.
Theo những người lớn tuổi ở làng Kon Tum Kơ Nâm thì đám cưới của người Ba Na ở thành phố Kon Tum nói chung và ở làng Kon Tum Kơ Nâm nói riêng bây giờ cũng có nhiều đổi khác: thời gian diễn ra lễ cưới cũng rút ngắn lại còn 1 ngày để tiết kiệm thời gian (trước đây kéo dài đến 3 ngày); đám cưới cũng không còn mổ bò, mổ trâu mà thay vào đó là thịt heo, gà để giảm chi phí. Tuy nhiên, cách thức tổ chức đám cưới thì cơ bản vẫn còn giữ được nét truyền thống.

Chú rể A Klăn ( làng Kon Tum Kơ Nâm, phường Thống Nhất, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum) cho biết, để chuẩn bị cho đám cưới của mình, trước đó cả tháng, bố mẹ anh đã phải làm hàng chục ghè rượu để sẵn trong nhà. Trước lễ cưới 1 ngày, gia đình cũng đã nhờ các thanh niên trong làng lên rừng chặt ống le để làm ống hút rượu cần, còn các thiếu nữ thì lên rừng hái rau, chặt thân cây chuối. Chuẩn bị nguyên vật liệu đâu vào đấy, họ tập trung tại nhà chú rể để phụ giúp. Người được chọn đứng ra làm mai mối thì trực tiếp mổ heo (gia đình có điều kiện thì thịt trâu, thịt bò), hướng dẫn đàn ông chế biến các món ăn. Đàn bà thì xắt thân chuối, làm sạch rau rừng. Các cô gái trẻ trong làng cùng nhóm bếp để nấu món cháo đặc – món ăn yêu thích và là món truyền thống trong các dịp lễ hội, cưới hỏi của người Ba Na. Các chàng trai trẻ trong làng thì lấy nước đổ vào ghè rượu, mang ghè ra sắp xếp trước sân nhà.

Trước khi nhập tiệc, người làm mai mối thay mặt gia đình hai bên trao cho cô dâu, chú rể 2 chiếc đùi gà để họ cùng trao đổi cho nhau, vừa ăn vừa uống rượu “giao bôi” dưới sự chứng kiến của bà con dân làng. Xong nghi lễ, tiệc cưới được bắt đầu với những ghè rượu, những xiên thịt gà, heo đã được nấu nướng sẵn. Cô dâu, chú rể chia nhau đi vòng quanh bà con họ hàng để nhận những lời chúc mừng, những món quà cưới thể hiện tấm lòng, tình cảm của mọi người đến chia vui niềm hạnh phúc.

Độc đáo ở đám cưới của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và người Ba Na ở làng Kon Tum Kơ Nâm nói riêng, quà cưới mừng cô dâu, chú rể thật đơn giản nhưng luôn được trân trọng như chính tình cảm của họ dành cho nhau.

Đối với con gái về nhà chồng, những bà mẹ thường dệt tặng cho cô dâu chiếc khăn để làm kỷ niệm. Đối với bà con họ hàng thì trong nhà có gì họ mang tặng cái nấy, không cầu kỳ. Có người mang hẳn những ghè rượu, có người chiết rượu cần ra chai mang đến đám cưới để mời cô dâu, chú rể; có người mang theo cặp gà, cặp heo, mấy chục quả trứng gà… Nếu không mang rượu, có người mang nước ngọt hay kẹo để tặng, có khi tặng tiền (vài chục ngàn đồng).

Những món quà cưới được bà con họ hàng trao tận tay cô dâu, chú rể sau khi cô dâu, chú rể uống xong những ly rượu hoặc những ly nước ngọt do mỗi người họ hàng mời.

Theo sau cô dâu, chú rể còn có 6 phụ dâu, phụ rể - họ mang những chiếc gùi rất xinh xắn để phụ cô dâu, chú rể đựng những quà cưới bà con họ hàng tặng hoặc uống đỡ những ly rượu mời cho cô dâu, chú rể.

Ông Chưt (58 tuổi) ở làng Kon Tum Kơ Nâm kể lại, cách đây 27 năm khi ông tổ chức cưới vợ cũng được bà con họ hàng tặng hơn chục cặp gà, hàng chục ghè rượu. Những con vật như heo, gà có người đến tặng trước đám cưới một ngày để giúp cô dâu, chú rể giết thịt đãi khách nhằm giảm bớt chi phí; có người đúng ngày cưới mới mang tặng để giúp cho vợ chồng mới tạo vốn liếng làm ăn. Mới đây, con gái lớn của ông Chưt lấy chồng, đám cưới cũng diễn ra theo phong tục truyền thống, được bà con họ hàng trong làng đến mừng cưới đến cả 2 gùi trứng gà. Với bà con, những món quà tuy đơn giản nhưng đấy là tất cả tấm lòng của họ.
 
Theo Báo Điện tử Kon Tum
Dân tộc Ba Na Dân tộc Ba Na

Tên tự gọi: Ba Na.

Tên gọi khác: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...

Nhóm địa phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar Krem.

Dân số: 227.716 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Ba Na canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy. Cái cuốc là công cụ chủ yếu trong canh tác nông nghiệp ở tộc người này. Với ruộng khô thì việc thâm canh không bỏ hóa là đặc điểm khác với rẫy. Ruộng khô thường ở vùng ven sông suối. Từ đầu thế kỷ XX, việc làm ruộng nước bằng cày đã ngày càng phát triển ở nhiều nơi. Vườn chuyên canh và vườn đa canh cũng xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi và các nghề thủ công như: đan, dệt, gốm, rèn còn chưa phát triển.

: Ðịa bàn cư trú của người Ba Na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây của Bình Ðịnh, Phú YênKhánh Hòa. Họ cư trú trên nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình sừng, ở giữa làng được xây cất một ngôi nhà công cộng - nhà làng, nhà rông với hai mái vồng và cao vút. Ðó là nhà khách của làng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội làng, xử án...

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng, cho nam, nữ và cho mọi lứa tuổi. Gùi nhiều kích cỡ to nhỏ và nhiều chủng loại, đan mau và thưa nhưng đều theo một mô típ cổ truyền.

Quan hệ xã hội: Làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh và duy nhất. Tàn dư mẫu hệ vẫn thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, tộc họ và trong hôn nhân. Sự tan rã của chế độ mẫu hệ ở đây đã nâng cao địa vị của nam giới nhưng phía mẹ vẫn gần gũi hơn. Sau hôn nhân còn phổ biến tập quán cư trú phía nhà vợ. Xã hội có người giàu, người nghèo và tôi tớ.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm