Người Cor với nghi lễ lấp lỗ chân trâu

Người Cor với nghi lễ lấp lỗ chân trâu
Người Cor là cư dân sinh sống lâu đời trên những triền núi thấp và thung lũng nhỏ thuộc hai huyện Trà Bồng và Trà Thủy (tỉnh Quảng Ngãi) và huyện Bắc Trà My (tỉnh Quảng Nam). Đồng bào Cor hiện còn duy trì nhiều nghi lễ liên quan đến lao động sản xuất, tín ngưỡng dân gian… nhằm tạ ơn trời đất, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.
Theo phong tục xưa của người Cor, sau 3 năm làng tổ chức lễ hội ăn trâu Huê (Xa ố piêu), năm đó bà con làm rẫy trúng mùa, nuôi được nhiều gia súc gia cầm, săn bắt được nhiều thú rừng, dự trữ được nhiều lúa, măng khô. Lễ lấp lỗ chân trâu (tiếng Cor gọi là lấp ố piêu) để ăn mừng nhằm xóa hết dấu vết chân trâu mà dân làng đã tổ chức lễ hội ăn trâu Huê (xa ố piêu) trước đó. Vì vậy, khi giết trâu xẻ thịt, bao giờ người Cor cũng giữ lại một lớp da trâu, da đuôi và một ít da phía dưới 4 bàn chân của con trâu đem để trên giàn bếp cho khô. Đây là vật phẩm không thể thiếu để mỗi gia đình người Cor tổ chức nghi lễ lấp lỗ chân trâu sau đó. Theo quan niệm của người Cor huyện Bắc Trà My, chỉ khi nào thực hiện xong nghi lễ lấp lỗ chân trâu thì lễ hội ăn trâu Huê của họ mới chấm dứt, thần linh, tổ tiên ông bà khi đó mới nhận đầy đủ lễ vật. Nghi lễ lấp lỗ chân trâu bao giờ cũng có heo, gà, rượu dùng để cúng sống và cúng chín đi kèm măng, thịt chuột, thịt sóc khô. Đặc biệt, phải có một con gà trống tơ lông đen thật đẹp để cúng gọi thần linh, hồn tổ tiên, ông bà.
Chủ nhà người Cor thực hiện nghi thức cúng heo chín.
Chủ nhà người Cor thực hiện nghi thức cúng heo chín.
Nghi thức của lễ lấp lỗ chân trâu thường diễn ra theo hai phần: cúng sống và cúng chín. Đặc biệt, ở nghi lễ này, người Cor không múa ka đấu quanh cây nêu mà chỉ múa trong nhà, đó là sự thể hiện lòng kính trọng với thần linh đang ngự trị trên cây nêu.
Nghi lễ này được thực hiện với cách cúng rượu trước với ý nghĩa khấn mời gọi thần linh, hồn tổ tiên, ông bà về chứng giám việc gia đình tiến hành nghi lễ lấp lỗ chân trâu, xóa hết dấu chân trâu. Kế đến, chủ nhà tiếp tục cúng heo sống ở ngoài sân dưới đất có trải những lá chuối. Heo cúng xong được đem đi chọc tiết, làm thịt. Đầu heo được luộc chín, thịt, xương heo chế biến các món ăn truyền thống như: luộc, nướng, xào, nấu xương măng dùng để cúng chín. Sau khi cúng heo chín xong, chủ nhà tiến hành cúng gà sống trong nhà ngay tại nơi thờ. Gà được cắt tiết ngay tại nơi cúng, sau đó mang gà đi luộc chín để tiến hành cúng chín. Riêng tiết và phần gà luộc chín dùng để thực hiện nghi lễ cúng gọi hồn. Theo người Cor, đây là hình thức cúng vái, gọi hồn vía cho những thân nhân trong gia đình đã chết trở về. Nghi lễ gọi hồn này thường do già làng, người già lớn tuổi thực hiện.

Trong quá trình thực hiện lễ hội ăn trâu Huê, những dấu chân trâu dẫm đạp nếu không thực hiện nghi lễ lấp lỗ chân trâu sau đó thì người Cor sợ rằng  hồn vía của người trong gia đình ham vui mà còn trú ngụ ở lỗ chân trâu, ở cây nêu sẽ hằng ngày quấy rầy cuộc sống của họ. Người Cor phải thực hiện nghi thức này thì mới thực sự cảm thấy yên tâm, thỏa mái, lạc quan trong cuộc sống. Nghi lễ lấp lỗ chân trâu còn nhắc nhở, chuyển tải bài học về cách ứng xử của cha ông với thần linh, tổ tiên ông bà. Đó là đạo lý tôn kính, biết ơn những vị thần, vong linh tổ tiên, ông bà đã luôn sát cánh che chở, đùm bọc, bảo vệ cộng đồng. Nó thể hiện lối sống thơm thảo, tinh thần đoàn kết cộng đồng của người Cor.
Theo baodaklak.vn
Dân tộc Co Dân tộc Co

Tên tự gọi: Cor, Col.

Tên gọi khác: Cua, Trầu.

Dân số: 33.817 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi các dân tộc khác trong vùng bắc Tây Nguyên và lân cận như: Hrê, Xơ Ðăng, Ba Na... Chữ viết ra đời từ thời kỳ trước năm 1975 trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh. Hiện nay chữ viết này không không phổ biến nữa.

Lịch sử: Người Co cư trú rất lâu đời ở tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam.

Hoạt động sản xuất: Kinh tế rẫy là nguồn sống chủ yếu, lúa rẫy là nguồn lương thực chính. Canh tác theo hình thức phát rừng, đốt, chọc lỗ tra hạt giống, tuốt lúa bằng tay. Kỹ thuật xen canh - đa canh trên từng đám rẫy và luân canh giữa các đám rẫy. Trầu không và quế của người Co nổi tiếng lâu đời. Ðặc biệt quế quý và nhiều là một nguồn lợi lớn: quế rừng và quế trồng. Rẫy quế của mỗi gia đình là loại tài sản quan trọng, thường 10 năm trở lên mới được thu hoạch. Nhờ bán quế, các gia đình có tiền mua sắm các gia sản được ưa chuộng (cồng, chiêng, ché, trâu, v.v... và nay thì xe, đài, đồng hồ, xây nhà, đóng đồ gỗ), đồng thời cũng chi dùng vào việc ăn uống, mặc, v.v... Hình thức dùng vật đổi vật được ưa thích.

Chăn nuôi: Trâu, lợn, gà trước hết để cúng tế; chó hầu như nhà nhà đều có. Nghề dệt và rèn không phát triển. Ðồ đan đẹp và phong phú. Sản phẩm hái lượm và săn bắt có ý nghĩa không nhỏ trong đời sống người Co.

Ăn: Bữa ăn thông thường là cơm gạo tẻ, muối ớt, các loại rau rừng và thịt cá kiếm được. Trước kia, đồng bào quen ăn bốc. Ðồ uống là nước lã, rượu cần, nay nhiều người đã dùng nước chín, nước chè xanh, rượu cất. Tục ăn trầu cau chỉ được duy trì ở lớp người lớn tuổi, nhưng tục hút thuốc lá vẫn còn phổ biến.

: Người Co sống tập trung ở Trà Bồng và Trà Mi thuộc tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam. Nhà sàn dài, cửa ra vào ở hai đầu hồi. Trong nhà chia dọc thành 3 phần: lối đi ở giữa, một bên được ngăn thành từng buồng nhỏ cho các gia đình sinh hoạt riêng, còn một bên dùng làm nơi sinh hoạt chung (tiếp khách, họp bàn, tổ chức lễ hội, ăn uống đông người, đan lát, vui chơi...). Xưa kia thường mỗi làng ở tập trung trong một vài ngôi nhà kiểu này, dài có khi hàng trăm mét, bên ngoài có rào chắn và bố trí vũ khí để phòng vệ. Gần đây, khắp vùng người Co phát triển trào lưu từng gia đình tách ra làm nhà ở riêng, nhà trệt, dựng theo kiểu nhà người Việt ở địa phương, đã có nhiều nhà lợp tôn, lợp ngói, cả nhà xây nữa.

Mặc: Ðồ mặc của người Co chủ yếu mua của người Xơ Ðăng và người Việt. Theo nếp truyền thống, nam đóng khố, ở trần, nữ quấn váy, mặc áo cộc tay; mùa lạnh thì khoác tấm vải choàng. Bộ quần áo dài với khăn xếp du nhập từ đồng bằng lên từng được dùng trưng diện trong ngày lễ hội, nhất là những bô lão khá giả. Ngày nay, quần áo người Việt được dùng lan tràn, váy còn thấy một số phụ nữ mặc nhưng đều dùng vải công nghiệp. Các loại vòng trang sức cũng chỉ bắt gặp thưa thớt, đơn giản, không dễ tìm được những phụ nữ quấn nhiều chuỗi hạt cườm quanh đầu, quanh cổ tay, cổ chân, trước ngực và quanh thắt lưng như trước kia nữa.

Phương tiện vận chuyển: Người Co có các loại gùi tự đan dùng để vận chuyển rất tiện lợi, thích hợp với điều kiện đất dốc, rừng núi và suối. Mọi thứ đều bỏ trong gùi và gùi được cõng trên lưng, có 2 quai quàng qua đôi vai.

Quan hệ xã hội: Mỗi làng có ông "già làng" được mọi người kính trọng và nghe theo. Dân làng sinh sống trên một địa vực ổn định có ranh giới, việc chuyển dịch cư trú của làng cũng chỉ trong vùng lãnh thổ ấy. Trong làng thường có quan hệ thân thuộc qua lại với nhau: hoặc về huyết thống, hoặc do hôn nhân. Tuy mỗi gia đình làm ăn riêng, chiếm hữu riêng đất rẫy, nhưng tính cộng đồng làng khá cao. Xã hội truyền thống Co đã nảy sinh giàu - nghèo khác nhau, nhưng chưa phát triển các hình thức bóc lột: nô lệ gia đình, cho vay nặng lãi...

Cưới xin: Hình thức hôn nhân cư trú đằng chồng là phổ biến. Phong tục cho phép nếu vợ chết có thể lấy tiếp em hoặc chị của vợ, nhưng vợ goá không thể lấy em chồng; nếu 2 anh em trai lấy 2 chị em gái thì phải anh lấy chị, em lấy em; nếu con gái nhà này đã làm dâu nhà kia thì 2 - 3 đời sau nhà kia mới gả con gái cho nhà này. Con cô - con cậu, con gì - con già, con có chung cha mẹ đều không được lấy nhau. Cùng một gốc sinh thành, nếu là anh em trai thì đời chắt của họ hoặc sau đó nữa mới có thể lấy nhau, song nếu là chị em gái hay một gái một bên trai thì cháu hoặc chắt của họ có thể lấy nhau. Ðám cưới đơn giản, gọn nhẹ, không tốn kém nhiều, chỉ là dịp mọi người uống rượu vui chứng kiến đôi trai gái thành vợ, thành chồng.

Ma chay: Quan tài gỗ, đẽo theo kiểu độc mộc. Người chết được chôn trong bãi mộ của làng, đặt không xa chỗ ở. Tang gia "chia của" cho người mới chết, đưa ra mộ không chỉ vật dụng và tư trang của người ấy, mà cả ché, chiêng...

Thờ cúng: Những đỉnh núi cao được người Co gọi là núi Ông núi Bà. Họ cho rằng có "thần linh" trú ngụ ở đó. Hệ thống "ma" (ka muych) và "thần" (kơi, ma) rất đông: ma người chết bình thường, ma người chết bất bình thường, ma quế, ma cây đa, ma nước, thần bếp lửa... Bởi vậy, người ra có nhiều kiêng cữ và cúng quải gắn với sản xuất và đời sống.

Lễ tết: Người Co có nhiều lễ, lớn nhất là lễ có đâm trâu tế thần - đây cũng là ngày hội lớn trong làng. Ngoài ra, tết gắn với sự kết thúc một mùa lúa rẫy là dịp sinh hoạt nhộn nhịp. Trong hai dịp đó, các món ăn dân tộc, nghệ thuật dân tộc và trang phục dân tộc được thể hiện tập trung, khơi dậy văn hoá truyền thống.

Lịch: Cách tính ngày tháng tương đương với âm lịch của người Việt, nhưng chỉ có 10 tháng, tiếp đến là thời gian nghỉ ngơi sau vụ canh tác. Bên cạnh đó, người Co coi trọng việc xác định ngày tốt, xấu để thực hiện các công việc khác nhau.

Văn nghệ: Ưa thích âm nhạc, dùng bộ chiêng 3 chiếc là phổ biến: nhạc cụ còn có trống, các loại đàn nhị. Múa chỉ xuất hiện trong lễ đâm trâu. Các điệu dân ca Xru (Klu), Agiới được lưu truyền rộng rãi. Vốn truyện cổ khá phong phú, có huyền thoại, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn... Nghệ thuật trang trí tập trung nhất ở cây cột lễ và cái "gu" trong lễ hội đâm trâu.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm