Nét đẹp trong trang phục dân tộc Brâu

Nét đẹp trong trang phục dân tộc Brâu
Cũng giống như các dân tộc Tây Nguyên, trang phục dân tộc Brâu dù đơn giản nhưng vẫn toát lên vẻ thanh thoát với màu sắc tinh tế, nhẹ nhàng.
Trước đây người Brâu dệt áo bằng vỏ cây rừng. Người ta lấy vỏ cây, đập, vắt lấy nước, nấu với nước sôi để dệt thành áo. Nhưng bây giờ bà con không sử dụng thứ ấy nữa. Bây giờ bà con thực hiện nghề thủ công dệt vải, đan vải.
Theo truyền thống, đàn ông Brâu xưa thường cởi trần đóng khố, đàn bà quấn váy tấm. Mùa hè cả nam và nữ đều ở trần hoặc mặc áo cánh ngắn, khoét cổ, chui đầu. Vào mùa lạnh đồng bào thường khoác thêm một tấm vải mềm. Hiện nay, trang phục và trang sức của người Brâu ngày nay đã có những thay đổi nhất định, nhưng vẫn giữ được những nét truyền thống. Đàn ông thời nay mặc áo ngắn thân thẳng, hình vuông. Trang phục nữ giới giờ đây cũng cầu kỳ hơn, có thêm hoa văn hoạ tiết được sáng tạo một cách tinh tế.
Điều đặc biệt trong trang phục của người Brâu chính là hoa văn. Họ quan niệm hoa văn trên trang phục của người đàn ông thường gân guốc thường có hình hàng rào, mũi tên, còn hoa văn trong trang phục của phụ nữ thường là hình hoa, thực vật… Trang phục người phụ nữ thường sử dụng các vật dụng làm đẹp như: mã não, hạt cườm, các hình mũi tên, tên lửa máy bay, các ký tự chữ cái, hay hình cột điện… đó là những cái so sánh giữa truyền thống và cái hiện đại trong hoa văn.
 
Vẻ đẹp trang phục của dân tộc Brâu không cầu kỳ, không sặc sỡ, mà đơn giản, hoà quyện với khung cảnh núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Trong trang phục truyền thống, người đàn ông Brâu như toát lên vẻ đẹp cơ thể vạm vỡ, khoẻ mạnh hoang dã, còn phụ nữ trở nên duyên dáng mềm mại và uyển chuyển hơn. Nét độc đáo trong trang phục của người Brâu còn thể hiện bởi các đồ trang sức kèm theo như: lông chim, ngà voi hay đồ kim loại mang dấu ấn cổ xưa. Phụ nữ Brâu tự làm đẹp cho mình bằng việc đeo rất nhiều vòng trang sức. Họ quan niệm, càng đeo nhiều vòng thì càng được nhiều người đàn ông ngưỡng mộ. Một số người còn đeo những chiếc vòng như lục lạc ở cổ chân, mỗi bước đi lại phát ra tiếng nhạc vui tai.
Theo langvietonline.vn
Dân tộc Brâu Dân tộc Brâu

Tên gọi khác: Brao.

Dân số: 397 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Người Brâu chuyển cư vào Việt Nam cách đây khoảng 100 năm. Vùng Nam Lào và Ðông Bắc Campuchia là nơi sinh tụ của người Brâu. Hiện nay, đại bộ phận cộng đồng này vẫn quần cư trên lưu vực các dòng sông Xê Xan (Xê Ca Máng) và Nậm Khoong (Mê Kông). Người Brâu có truyền thuyết Un cha đắc lếp (lửa bốc nước dâng) nói về nạn hồng thuỷ.

Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm rẫy để trồng lúa nếp, lúa tẻ, ngô, sắn. Phương thức canh tác là phát, đốt rồi chọc lỗ tra hạt, thu hái bằng tay. Việc săn bắn, hái lượm còn chiếm vị trí quan trọng, đem lại thức ăn khá thường xuyên cho mọi gia đình. Trong làng người Brâu sinh sống có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Ðàn ông có khá nhiều người biết đan lát. Ðể có đồ mặc, người ta thường đem lâm thổ sản đổi lấy váy áo hoặc vải của các dân tộc láng giềng.

Ăn: Người Brâu chủ yếu ăn cơm nếp đốt trong ống nứa non (cơm lam), thứ đến là cơm gạo tẻ nấu trong nồi đất nung. Ngô, sắn chỉ dùng để chăn nuôi gia súc, gia cầm. Thức ăn có muối ớt, rau quả, măng tươi, cá suối, chim thú săn bắn được. Thức uống có rượu cần. Trẻ, già, trai, gái đều thích hút thuốc lá sợi bằng điếu khan.

Mặc: Ðàn ông xưa đóng khố, đàn bà quấn váy tấm. Mùa hè, nam nữ thường ở trần hoặc mặc áo cánh ngắn chui đầu. Mùa lạnh thường khoác thêm một tấm mền. Nữ giới có tục căng tai để đeo những khoanh nứa vàng hoặc khuyên bằng ngà voi. Nữ trang có vòng cổ, vòng tay bằng đồng, bạc hay nhôm. Nam nữ đến tuổi 15-16 đều theo tục cưa bằng 4 răng cửa hàm trên để chính thức hội nhập vào cộng đồng những người trưởng thành.

: Người Brâu sống tại làng Ðắc Mế, xã Bờ Y thuộc huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum. Họ cư trú trên những ngôi nhà sàn có mái dốc cao. Nền sàn được cấu tạo thành hai nấc cao thấp khác nhau để phân định chức năng sinh hoạt. Nhà chính đi sang nhà phụ qua một cầu sàn. Các ngôi nhà trong làng được bố trí quay đầu hồi, mở cửa chính hướng về phía trung tâm - nơi có ngôi nhà làng - nhà chung của cộng đồng. Như vậy làng có khuôn viên hình tròn, các ngôi nhà ở được sắp xếp như một cái nan hoa của bánh xe bò.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi đan bằng tre nứa để cõng trên lưng.

Quan hệ xã hội: Xã hội Brâu đã phân hoá giàu nghèo ở giai đoạn ban đầu. Gia đình nhỏ phụ hệ đã được thiết lập, nam nữ bình quyền. Những tàn tích của chế độ gia đình mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét.

Cưới xin: Lễ cưới được tổ chức ở nhà gái song do nhà trai chi phí. Sau lễ kết hôn, tục ở rể được kéo dài khoảng 4 -5 năm và tiếp đó là thời kỳ luân cư của đôi trai gái.

Ma chay: Khi có người quá cố, tang chủ nổi chiêng trống để báo tang. Thi hài được liệm trong quan tài bằng thân cây khoét rỗng để ở nhà tang mới dựng gần nhà ở. Quan tài chôn nửa chìm nửa nổi là một đặc trưng trong tục lệ ma chay của người Brâu. Nhà mồ dựng trên mộ để chứa những tài sản được chia cho người chết. Số tài sản này đều đã bị huỷ một phần dưới hình thức bẻ gẫy, chọc thủng, làm sứt mẻ...

Nhà mới: Khi ngôi nhà được khánh thành, người ta làm lễ lên nhà khá long trọng và được cả làng cùng tham dự bữa tiệc sau lễ cúng các thần linh.

Lễ tết: Lễ ăn mừng cơm mới sau ngày thu hoạch là Tết. Ngày ăn tết tuỳ thuộc vào thời vụ và từng gia đình cụ thể, không quy định ngày nào thống nhất.

Lịch: Nông lịch tính theo tuần trăng và định ra tháng theo mùa vụ canh tác rẫy lúa của ông bà xưa.

Học: Ngôi nhà làng ở trung tâm đồng thời là trường học của thanh thiếu niên do các già làng đảm nhiệm. Trẻ được học nghề, học những truyền thống văn hoá của tộc người mình và rèn luyện tinh thần chiến đấu bảo vệ an ninh cho buôn làng, bảo vệ phong tục tập quán của ông bà xưa.

Văn nghệ: Dân ca có lời ca, truyện cổ về thần sáng tạo Pa Xây, huyền thoại Un cha đắp lếp, những bài ca đám cưới, hát ru. Nhạc cụ có đàn klông pút được gọi là táp đinh bổ, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là những bộ chiêng đồng nổi tiếng với 3 loại có thang âm khác nhau là coong, mam và tha.

Chơi: Người Brâu có các trò chơi vui giải trí như đánh cù, thả diều sáo, hay diều bươm bướm, bơi lội trên sông, cướp dây, bịt mắt đi tìm, đi cà kheo...

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm